Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

VIệt Nam - Trung Quốc . Hai Quốc Gia . Một Định Mệnh

Bùi Khiết
     Ngày 11 tháng 11 năm 2010, tại
Saigon khi tham dự "Hội Thảo Quốc Tế Biển Đông" Học giả Trung Quốc là tiến sĩ
Vương Hàn Lĩnh được một phóng viên Việt Nam tên là Huỳnh Phan thuộc báo mạng "
Tuần Việt Nam" phỏng vấn.

     Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh hiện đang
công tác tại Học viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc. Khi trả lời những câu hỏi về
Biển Đông và chủ quyền các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tiến sĩ Lĩnh đã hồn
nhiên trả lời; " Tất cả những quần đảo nằm trong đường chữ U chín đoạn (đường
Lưỡi Bò) là thuộc về Trung Quốc và Trung Quốc đã thực thi chủ quyền và quyền tài
phán từ lâu cách đây hơn 2000 năm" và ông còn nói thêm "cho đến năm 1885 Việt
Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc".


      Lời phát biểu trên đã khiến nhiều
người thắc mắc và không đồng ý, vì lập luận như vậy có nghĩa là:

     - Gần như toàn bộ hải
phận VN thuộc Trung Quốc.

     - Các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ lâu nay người VN vẫn thấy là của mình và vẫn thường xuyên khai thác hải
sản nay Trung Quốc nhận là của họ.

     - Ngay cả quốc gia VN cũng là phần
đất của họ (thuộc quốc) cho đến năm 1885 bị Pháp xâm chiếm.

     Đây là nhận định của chính quyền
Trung Quốc mà học giả Vương Hàn Lĩnh chỉ là cái ống loa nhắc lại.

     Tất nhiên người dân VN nghe vậy đều
chói tai. Nhưng ngay cả lịch sử VN dựa theo lịch sử Trung Quốc cũng đã chấp nhận
VN bị TQ đô hộ 1000 năm và là một quốc gia mỗi khi có sự thay đổi triều đại đều
phải xin phong vương và có triều cống. Như vậy VN là một thuộc quốc. Nhiều sử
gia VN cũng chấp nhận ý kiến này.

     Ngày nay các tài liệu lịch sử phong
phú không còn bị bưng bít và bóp méo như xưa, nên đã đến lúc ta cần phải suy
nghĩ lại. Thực sự TQ có phải là một cường quốc luôn luôn ức hiếp VN và dưới thời
nhà Nguyên và nhà Thanh, VN đã anh dũng đẩy lùi quân TQ. Tài liệu lịch sử đã
minh xác VN thắng quân Nguyên và quân Thanh chứ không thắng quân TQ. Tại hai
thời kỳ đó TQ là thuộc quốc của Mông Cổ và Mãn Châu. Năm 1885, Mãn Thanh cai trị
TQ. TQ là thuộc quốc của Mãn Châu. Còn VN là một nước độc lập.

     Vương Hàn Lĩnh nói VN là thuộc quốc
của TQ là sai.

     Các sử gia VN thường mắc cái bẫy lý
luận của TQ là các triều đại Nguyên và Thanh là hai triều đại của lịch sử TQ.
Đây là một sự "nhận vơ" , đánh lừa khiến trong tâm cảm của người Việt mang một
dòng máu tự ti, lúc nào cũng sợ TQ. Mà trên thực tế không lân bang nào của TQ sợ
TQ  dù họ chấp nhận ảnh hưởng văn hóa.

    Với bài viết này, người viết muốn
chứng minh rằng không phải chỉ người VN đã biết "tránh voi chẳng xấu mặt nào" để
đánh lừa cái tủi hổ thua kém, mà chính TQ là cha đẻ ra cái triết lý này đã đẩy
lên thành một nghệ thuật xu nịnh, cầu cạnh, khép nép tinh vi, đó là cầu phong
vương, triều cống và cắt đất.

     Địa lý chính trị và nhân chủng phần
nào cắt nghĩa sự yếu kém của TQ và của VN.

     Dân TQ và dân Bách Việt (sống ở
phía Nam sông Dương Tử) là giống dân văn minh. Họ sống định cư. sống dọc theo
các nguồn nước ngọt và đồng bằng. Họ làm nhà cửa bằng thảo mộc. Họ trồng lúa
gạo, lúa mì và các cây ăn trái. Họ nuôi gia súc, thực phẩm chính là ngũ cốc, rau
cỏ. Họ sống quần cư cố định thành làng xóm và thành gia tộc. Họ có điều kiện no
đủ để suy nghĩ về triết lý và tôn giáo. Các điều kiện văn minh của dân định cư
này tạo cho họ tánh ưa truyền thống và không thích thay đổi. Họ sợ phiêu lưu mạo
hiểm. Họ sống bám vào đất cát canh tác. Họ bám và dựa dẫm vào gia tộc, cộng
đồng. Tình tình họ hiền hòa, bất đắc dĩ lắm mới phải chấp nhận chiến tranh. Kinh
nghiệm cho biết chỉ có 2 địa hạt tạo cho họ có của cải. Đó là làm cấp chỉ huy và
làm nghề nông. Vì ở quần cư, dựa dẫm vào nhau nên họ phải giữ cái tình để đối
xử. Cho nên người dân TQ và người dân VN đều lấy 4 nghề chính và sắp xếp theo
thứ tự ưu tiên: Sĩ,  Nông, Công, Thương.

     Trái lại các dân tộc sống ở phía
Bắc và phía Tây TQ thì trái ngược hẳn. Họ là dân du mục. Nơi đất sống của họ là
những thảo nguyên bao la, những sa mạc bát ngát.  Trong năm họ luôn
luôn di động. Họ sống bằng thịt sống và sữa tươi. Của cải của họ là bầy gia súc
gồm bò, ngựa, dê, cừu, lạc đà. Nơi đâu có nước và có đồng cỏ xanh tươi là họ xua
đàn gia súc tới. Họ sống trong các lều bằng da thú gọi là Yurt. Và ngay cả quần
áo của họ cũng bằng da. Họ cưỡi ngựa và bắn cung rất giỏi mục đích để bảo vệ đàn
gia súc. Thể thao yêu thích của họ là môn vật lộn.

     Dân du mục này có sức chịu đựng phi
thường. Khi qua sa mạc họ chịu đựng một khí hậu nóng bức thường xuyên +40oC và
có khi vào mùa đông khí hậu lạnh xuống dưới -45oC. Đôi khi trong những trận bão
cát ngụt trời họ phi ngựa như tên bắn để lùa đàn gia súc.

     Về vóc dáng họ to lớn hơn người TQ
sống định cư. Họ luôn sống trên mình ngựa từ hồi còn thơ ấu. Bản chất ăn thịt
sống khiến họ rất dữ dằn. Họ không sợ chiến tranh và họ có kinh nghiệm tác
chiến, bao vây, tấn công của một bầy chó sói sa mạc. Họ thích tấn công và cướp
bóc. Giống dân du mục phương Bắc này là một ám ảnh u sầu cho người dân TQ. Ngàn
năm này qua ngàn năm khác cố công xây dựng Vạn Lý Trường Thành để ngăn ngừa mọi
cuộc xâm lấn. Nhưng dù có Vạn Lý Trường Thành thì sức cản ngăn vẫn thường xuyên
thất bại. Và lịch sử TQ là một lịch sử tủi nhục kéo dài đến năm 1911 là năm Tôn
Dật Tiên lật đổ được triều đại Mãn Thanh.

     Tóm lại có 2 nền văn minh là văn
minh du mục và văn minh nông nghiệp đã va chạm mãnh liệt trên đất trời
TQ.

     TQ và VN. Hai quốc gia có cùng một
định mệnh lá ám ảnh sợ hãi từ những xâm lấn phát xuất từ phương Bắc. Họ cố gắng
chiến đấu, để lùi dần về phương Nam. Họ cố tồn tại bằng sự chịu đựng khổ nhục
như cầu hòa, triều cống, cắt đất và bỏ chạy. Nhưng vì sợ hãi bị diệt vong họ
phải thêu dệt nên những kỳ công để cho con cháu hậu thế noi gương giữ vững tinh
thần chiến đấu. Và dưới đây là những khổ cực nhục nhằn của dân tộc TQ qua mấy
ngàn năm lịch sử. TQ gọi chung các dân tộc du mục hung hãn phương Bắc là Rợ
Hồ.

* Đời Nhà Hán (-206 tới
+220)
Sau khi nhà Tần bị chấm dứt, nhà Hán lên ngôi. Miền
Trung Nguyên được coi là thời có thịnh trị nhưng thực tế lại bị các Rợ Hồ gồm
người Mông Cổ, gốc Thổ Nhĩ Kỳ (Đột Quyết) thay nhau xâm lấn.

    Chúa của họ gọi là Thiền Vu. Dưới
mắt Thiền Vu TQ như một con heo yếu ớt, lúc nào cũng có thể đánh giết được. Vì
vậy họ thường xuyên vượt qua Trường Thành vào cướp bóc, phía Tây TQ có giống Chi
và Khương (Tây Tạng) cũng là dân du mục, đồng chủng với Mông Cổ cũng hung hãn
không kém.

     Vì Rợ Hồ quá mạnh, nên các vua Hán
thường mưu mô lấy sự đút lót gọi là triều cống để lấy lòng mong tránh việc chiến
tranh. Đồ cống thường là vàng, bạc và lụa là. Nhưng vì TQ quá yếu lại có tinh
thần thích lo lót nên các Thiền Vu thường đòi hỏi rất ngang ngạnh, vừa làm xấu
mặt kẻ thù vừa thỏa mãn khi có quà tặng rất lạ. Thiền Vu đòi phải gả các công
chúa đẹp về hầu hạ cho mình. Vua Hán phải chịu. Được thể, Thiền Vu tăng sức ép
đòi vua Hán gởi vợ đẹp đang được sủng ái sang làm tỳ thiếp. Còn gì nhục nhã hơn.
Nhưng vua Hán đã gởi nàng Chiêu Quân, người vợ đẹp, chung thủy sang đất Hồ. Câu
chuyện bi thảm khi Chiêu Quân nước mắt ngắn dài theo tùy tùng qua vạn dặm băng
tuyết để rồi chết trên đất Hồ. Truyện "Chiêu Quân Cống Hồ" thành một tác phảm
văn chương lưu truyền cho tới ngày nay.

     Năm 127 một tiểu quốc phía Bắc Ấn
Độ gọi là Đại Nhục Chilại đi thần phục nhà Hán. Thiền Vu cho thái độ đó là hèn
nhát và qua mặt nên sai quân qua đánh, chém đầu vua Đại Nhục Chi đem về dùng làm
bình chứa rượu. Vua Há Võ Đế cảm thấy bị động chạm, bị dằn mặt nên sai Tô Vũ đi
sứ Đại Nhục Chi để mong tái lập liên minh đánh lại Rợ Hồ, lúc gọi là Hung Nô.
Nào ngờ dọc đường sứ bộ Tô Vũ bị Hung Nô bắt được. Để bêu nhục Hán Võ Đế, Thiền
Vu không cho Tô Vũ về nước mà bắt làm tù binh đi chăn dê chăn cừu vào mùa tuyết
lạnh. lại còn bắt phải lấy một phụ nữ rất xấu xí ở trong hẻm núi và loan truyền
Tô Vũ đã lấy khỉ sau đó có sinh được một đứa con. Nhân một mùa tuyết lạnh Tô Vũ
trốn thoát và tìm đường đến Đại Nhục Chi, dọc đường đói khát, cực khổ. Nào ngờ
tới nơi vua Đại Nhục Chi sợ Hung Nô trả thù bèn làm mặt giận quát tháo từ chối
đưổi Tô Vũ ra khỏi nước. Tô Vũ trên đường trốn tránh về TQ không may lại bị Hung
Nô bắt. Được tin Tô Vũ bị nạn vua Hán sai hai tướng là Lý Quảng Lợi và Lý Lăng
mang quân qua đánh Hung Nô, vừa để cứu Tô Vũ vừa để dương oai. Nhưng cả hai đoàn
quân đều đại bại. Hai tưởng trong cảnh tuyệt lộ xin đầu hàng nhưng bị quân Hung
Nô chém chết. Truyện Chiêu Quân Cống Hồ và truyện tranh Tô Vũ Chăn Dê quả là hai
vết nhơ trong lịch sử TQ.

     Đến đời Hán Tuyên Đế một bộ lạc
Hung Nô tên là Ô Tôn mà theo người TQ thì " mắt xanh, râu đỏ như loài khỉ" ngang
nhiên gởi sứ qua đòi gả một công chúa làm tỳ thiếp. Vua Hán ưng chịu. Một Thiền
Vu của một bộ lạc khác cho rằng cưới như vậy là lấy xuống. Yêu cầu gởi trả lại
TQ. Thiền Vu Ô Tôn không chịu gởi trả nên chiến tranh đã xảy ra. Năm đó có một
cơn bão tuyết ghê gớm, quân hai bên chết như rạ nên cả hai bên đều lui quân.
Nhưng Thiền Vu Ô Tôn không quên rước công chúa về dinh mình.

*  Đời Nhà Tây Tấn
(265-317)
  Phía Bắc có 5 Rợ Hồ hùng mạnh gọi
là Ngũ Hồ gồm: Hung Nô, Yết (hoặc Kiết), Mông Cổ, Mãn Châu (Tiên Ti), chủng loại
Tây Tạng (Chi và Khương) đồng loạt vượi Vạn Lý Trường Thành chiếm lưu vực sông
Hoàng Hà và phần lớn Trung Nguyên. Trong Ngũ Hồ có Hung Nô mạnh hơn cả. Thiền Vu
của họ là Lưu Uyên muốn chiếm luôn TQ để lên ngôi Thiên Tử và có ý định từ bỏ du
mục.     Ông ta lập một triều đình như triều đình TQ và lấy Bình
Dương, phía Nam Tây Sơn làm kinh đô. Sau khi chiếm hầu hết TQ, quốc hiệu Hán bị
bỏ đi và triều đại mới gọi là Triệu.

     Người hung nô đàn áp người TQ, cướp
bóc tài sản, bắt cung cấp thực phẩm, biến một số ruộng nương làm đồng cỏ nuôi
gia súc.

     Người Hung Nô dần dần bỏ đời sống
du mục, an hưởng trên sự nô lệ và phục tùng của người TQ. TQ đã biến thái và văn
hoá có sự thay đổi. Một số kẻ sĩ và gia đình không thích nghi với xã hội mới bèn
lẩn trốn về phương Nam.

     Ngũ Hồ tranh nhau xâm chiếm TQ và
tạo ra nhiều nước nhỏ. Với nước Triệu lớn nhất gồm Tiền Triệu, Hậu Triệu, Mộ
Dung, Yên. Hậu Yên, Tây Yên, Tiên Tần, Hậu Tần, Tây Tần, Hậu Lương, Bắc Lương,
Tây Lương, Nam Lương, Hậu Ngụy, v.v. Trung Quốc nát ra nhiều mảnh. Tất cả các vị
vua nước nhỏ đều là Rợ Hồ. Người TQ chỉ làm nô tài, nô lệ mà thôi. Lúc đầu văn
hoá du mục của các Rợ Hồ đã đồng hoá với văn hoá TQ.

     Số người TQ chạy trốn xuống phương
Nam sống với người Bách Việt, Dao, Thái, v.v. và những người TQ đã di cư từ
trước lập ra một vùng định cư nông nghiệp lớn khác hẳn vùng Hồ khắc khổ phương
Bắc.

*  Đời Nhà Đường
(618-906)
  Rợ Đột Quyết (Thổ Nhĩ Kỳ) từ vùng
Trung Á tiến qua sa mạc Qua Bích (Gobi) đánh thẳng vào TQ. Rợ Thổ Cốc Hồn (Tây
Tạng) đánh qua. Quân Đột Quyết đánh chiếm luôn Tràng An là kinh đô nhà Đường.
Vua Đường là Thế Dân phải tự trói lết tới đồn địch để cầu hòa. Theo tục lệ,
tướng Đột Quyết chém con ngựa trắng, lấy máu, bắt Thế Dân quỳ lạy cúng thần rồi
tha chết cho về. Rợ Thổ Cốc Hồn cũng đánh phá liên tục khiến nhà Đường phải bỏ
đất lui về thế thủ. Các dân tộc Hồi ở Trung Á cũng nhân cơ hội đó xua quân vào
chiếm đất là lập những thánh đường.

      Cuộc xâm lăng của các Rợ Hồ đã
mang tới TQ một nền văn hoá mới về ca, nhạc, kịch, nhảy múa. Các loại đàn khác
lạ của Rợ Hồ , người TQ gọi là Hồ Cầm.

      Đời nhà Đường có một người đàn bà
là Võ Tắc Thiên thường gọi là Võ Hậu là người ham quyền lực, tàn bạo và dâm đãng
đã giành được ngôi vua. Bà dời đô từ Tràng An về Lạc Dương.

      Năm 698 vua Rợ Đột Quyết không đòi
cưới công chúa Đường mà đòi một Thế Tử TQ sang ở rể để làm con tin. Võ Tắc Thiên
ưng thuận. Đột Quyết ghét Võ Tắc Thiên lại đòi phải đưa Trung Tôn dòng dõi nhà
Đường đang bị đầy ở Phòng Châu trở về lên ngôi. Dùng quân sự uy hiếp khiến Võ
Tắc Thiên phải nhường ngôi sau đó ít lâu thì bà mất.

      Năm 713 vua Huyền Tôn thường được
gọi là Đường Minh Hoàng là một ông vua kém tài chínhtrịnhưng lại có khiếu văn
nghệ và ăn chơi. Trong cung có một tên quan có tài nịnh bợ tên là Lý Lâm Phủ đưa
đẩy người con dâu của Huyền Tôn đến hầu vua gây ra một vụ loạn luân bố chồng
nàng dâu thật đáng chê trách. Người con dâu này rất xinh đẹp và khéo léo có tên
là Dương Ngọc Hoàn, dân gian gọi nàng là Dương Quý Phi. Mối tình Đường Minh
Hoàng và Dương Quý Phi được làm đề tài cho nhiều sáng tác văn nghệ. Lý do là
Dương Quý Phi đưa người anh ruột là Dương Quốc Trung vô triều đình làm
tướng.

     Người này cùng Lý Lâm Phủ nắm mọi
quyền hành trong triều đình, tạo bất công, gây nhiều bất mãn.

    Một tướng biên thùy là
An Lộc Sơn mà mẹ là người Đột Quyết và bố là Mông Cổ thấy triều đình đổ nát bèn
cử binh làm phản. Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi phải bỏ kinh đô trốn vào đất
Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay). Đất Thụcx hoang vu, nghèo nàn khiến quân sĩ đói
lạnh ai oán nổi lên giết chết Dương Quốc Trung và hai người em gái Dương Quý
Phi. Ba quân còn hăng máu đòi chém luôn Dương Quý Phi vì cho rằng gia đình họ
Dương đã gây nên khổ ải  đi vào đất chết. Đường Minh Hoàng thấy
không thể bảo vệ được bà vợ yêu quý đành để cấm binh ép buộc nàng tự tử treo cổ
trên một cành cây bằng tấm lụa trắng.

     Giặc Hồ nhân cơ hội này vào chiếm
kinh đô, sau khi An Lộc Sơn bị chính con ruột tranh quyền giết chết. Từ đó dân
TQ bị Rợ Hồ áp bức và vơ vét. Theo lịch sử họ tàn sát tới 2/3 dân số TQ từ 53
triệu giảm xuống còn 17 triệu.

     Những câu chuyện huyền thoại bi
thảm của Chiêu Quân, Tô Vũ, Đườnh Minh Hoàng, Dương Quý Phi đều có sự nhúng tay
của Rợ Hồ phương Bắc.

      Dân TQ chạy trốn về phương Nam
sống chung với dân định cư phương Nam. Vì dân TQ càng đông nên họ chiếm lấn hết
phương Nam, ép dân bản xứ Bách Việt hiền lành nhường cơm sẻ áo với họ, về một
phương Nam xa hơn. Va 2 người TQ bỗng trở thành những kẻ xa lạ, tham lam hơn là
những người gặp cảnh ngộ khó khăn để được chia sẻ. Người phương Nam sợ và oán
hận những người phương Bắc di tản tới. Về phương Nam người TQ cũng thay đổi ít
nhiều với sự pha trộn văn hoá Bách Việt. Họ thành lập 7 nước như: Ngô, Ngô Việt,
Nam Hán, Bắc Hán, Tiền Thục, Sở, Mân. Nếu ở lại họ sợ rợ Hồ bao nhiêu thì phiêu
bạt đến phương Nam họ cũng nhiễm cái tàn ác man rợ của Rợ Hồ khi đối xử với dân
bản địa. Tất cả những cái gì hay, tốt đẹp của Bách Việt họ đều chiếm đoạt và
xưng tụng là của TQ.

* Đời Ngũ Đại
(907-960)
  Nhà Đường chấm dứt vào năm 907 thay
thế bằng đời Ngũ Đại. Thời đó các Rợ Hồ phương Bắc tràn vô hầu hết các miền trên
đất TQ. Họ tạo ra 10 nước riêng rẽ, đánh lộn tranh dành nhau khiến dân tình rất
khổ sở. Trong các Rợ đó có Rợ Khiết Đan thuộc miền Đông Bắc TQ (Mãn Châu) là có
nhiều thế lực hơn cả. Khi trở thành một nước mạnh họ lấy quốc hiệu là Liêu và
luôn luôn dòm ngó về miền Trung nguyên.

* Đời Nhà Tống
(960-1126)
  Đời Ngũ Đại đất nước rất loạn lạc.
Một nhân vật tên là Triệu Khuông Dẫn nổi lên như một sứ quân. Khuông Dẫn không
có tài nhưng là người đức độ nên được đồng đảng tôn lên làm vua và lấy quốc hiệu
là Tống. Có người bàn mưu cho ông biết rằng Rợ Khiết Đan nay đã là Liêu Rất
mạnh. Đụng độ thì ắt phải thua. Tốt nhất là nên lui về phương Nam và tiêu diệt
các sứ quân yếu khác để tồn tại. Bẩy nước yếu, nhỏ ở phương Nam đã bị Tống thôn
tính. Khi Tống đã mạnh lên xong người TQ luôn luôn ám ảnh về sự bị tiêu diệt bởi
phương Bắc mà nay là Liêu, nên Tống hết sức tránh né mọi va chạm với Liêu. Về
ngoại giao Tống triệt để áp dụng phương thức chịu nhục " tránh voi chẳng xấu mặt
nào" để tồn tại. Ngoài nước Liêu còn có nước Tây Hạ thuộc Rợ Thát Bạt đã chiếm
cứ các vùng Thiểm Tây, Cam Túc, Tuy Viễn cũng là một lực lượng mà Tống rất e
ngại. Để có hoà bình vua Tống đề nghị :

- Với nước Liêu: Vua Tống mỗi năm xin triều
cống

                             - 10 vạn
lạng bạc

                                  -
20 vạn tấm lụa

                                 -
Và xim làm em vua Liêu

- Với nước Tây Hạ: Tống mỗi năm cũng xin
cống

                                   - 25 vạn lạng bạc

                                   - 25 vạn lạng trà

     Nhờ có triều cống mà Tống có hòa
bình. Tướng sĩ sinh ra biếng nhác, tinh thần yếu đuối suy nhược. Các Rợ khác
thấy Tống nhu nhược cũng đòi triều cống.

     Hai nước Liêu và Tây Hạ vốn là dân
du mục nay được cống thực phảm, bạc, lụa, gái đẹp, nô lệ nên cũng đổi dần cách
sống gần như dân bản địa TQ.

     Vì bị ngoại bang bóc lột nên nước
Tống rất nghèo đến nỗi vua Nhân Tôn (1023-1063) có lúc đói mà thèm món thịt dê
cũng không có, quần áo của vua là loại vải thô. Một vị quan rất giỏi và nổi
tiếng là Vương An Thạch cố gắng đưa ra những biện pháp cải cách kinh tế nhưng bị
nhóm quan thủ cựu cản trở nên đã không thành công. Dân gian đói khổ, oán than.
Vua Tống nghĩ quẩn dùng biện pháp chiến tranh với Tây Hạ để làm chủ dư luận hầu
gây lại uy tín. Năm 1075 vua Tống tấn công Tây Hạ, tuy thắng được vài trận nhỏ
nhưng sau đó thì đại bại, 60 vạn quân Tống bị tiêu diệt. Mất người, tốn của vua
Thần Tôn ôm mặt khóc lóc bỏ ăn bỏ ngủ nhiều ngày.

     Thấy Tống thua Tây Hạ, nước Liêu
bèn dàn quân đời Tống nhượng đất. Vua Tống đành phải cắt 700 dậm để dâng cho
Liêu.

* Với nước Đại Việt (Việt Nam)     Thất
bại ở phương bắc, vua Tống vẫn nghĩ đến việc tìm kiếm một chiến thắng quân sự để
củng cố niềm tin. Quân Tống dự định tấn công VN, nào ngờ triều đình VN lúc bấy
giờ là Lý Thần Tôn đã ra tay trước. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn quân
chia làm 2 đạo đánh vào 2 châu Khâm và châu Liêm (thuộc tỉnh Quảng Tây) . Quân
VN đại thắng giết hại 2 vạn quân TQ. Năm sau vua Tống muốn phục thù cho quân xâm
lược VN bị Lý Thường Kiệt đánh tantrên sông Như Nguyệt (sông Cầu thuộc tỉnh Bắc
Ninh ngày nay).

* Với nước Kim (Rợ Kim) và Bắc Tống.  Nhà Tống cầm quyền đã trên 100 năm mà không sao giải quyết được 2 cái họa
Liêu và Tây Hạ nay lại thêm một cái họa lớn nữa là Rợ Kim.

     Nhà văn Kim Dung trong cuốn truyện
võ hiệp " Anh Hùng Xạ Điêu" đã dùng bối cảnh lịch sử bang giao giữa 3 nước
Tống-Kim-Mông Cổ vào thời đó để dựng truyện.

     Lai lịch nước Kim như sau. Ở miền
thượng du Hắc Long Giang có một bộ tộc mà người TQ phiên âm là Nữ Chân cũng là
một bộ tộc ở Mãn Châu. Thế kỷ 11 họ là một thành phần của nước Liêu. Đến thế kỷ
12 Nữ Chân nổi dậy chiếm một phần đất của Liêu lập nên nước Đại Kim. Vua Tống
thấy nội tình vùng này có sự chia rẽ bèn mưu tìm can thiệp. Tống liền sai sứ mưu
liên kết với Đại Kim để diệt Liêu. Với thỏa hiệp như sau:

     Nếu liên quân Tống-Kim thắng thì
Tống chỉ xin lấy lại phần đất năm xưa đã cắt cho Liêu. Còn lại bao  nhiêu của cải, đất đai của Liêu là phần của Đại Kim hết. Để co kết quả
của sự liên minh này, Tống hứa mỗi năm nộp cho Đại Kim 20 vạn lạng bạc và 30 vạn
tấm lụa.

     Cuộc tấn công bắt đầu, nhưng quân
Tống đánh đâu cũng bị quân Liêu đánh thua, ngược lại quân Đại Kim lại thắng lớn
quân Liêu. Nhiều khi Kim còn phải cứu nạn cho Tống nữa. Chán nản về sự yếu kém
của Tống, Đại Kim cho rằng chỉ có một mình Kim có công diệt Liêu. Viện lẽ đó bắt
Tống mỗi năm phải trả thêm một triệu quan tiền thuế đất. Đất mà Tống đã lấy lại
của Liêu theo hiệp ước. Việc nộp tiền thuế hơi chậm trễ, thế là Kim lấy cớ đem
quân đánh Tống. Quân Tống đại bại. Dân chúng TQ sợ hãi nỗi loạn khắp nơi. Vua
Tống thấy tình thế nguy hiểm bèn chạy trốn xuống Giang Nam. Quân Kim tiến vào
kinh đô. Mặt khác vua Tống gởi sứ giả xin cầu hòa. Kim đòi Tống muốn có hòa bình
phải triều cống ngay theo đòi hỏi dưới đây. Nếu chậm trễ quân Kim sẽ truy kích.
Cống vật gồm:

                          - 500 vạn lạng
vàng

                          - 5000 vạn
lạng bạc

                          -
100 vạn tấm lụa

                          - 1 vạn con
ngựa và bò

                          - Cắt đất Hà
Bắc cho Kim

                          - Vua Tống
phải gọi vua Kim bằng bác xưng cháu

                          - Gởi thân
vương và tể tướng qua Kim làm con tin.

    Vua Tống không thể tưởng tượng được
sự đòi hỏi lại lớn lao như vậy. Quân đội Tống được lệnh đi thu góp vàng bạc của
dân chúng nhưng chỉ được

                             - 20 vạn
lạng vàng

                             - 400 vạn
lạng bạc

                             - Lụa và
ngựa bò không đủ

     Tài sản của dân TQ bị tước đoạt
thảm hại. Đâu đâu cũng nổi lên những lời oán than. Quân Kim thấy tình trạng đó
cho phép Tống nợ và trả dần. Kim rút quân về nước. Vua Tống trở lại kinh đô, hí
hửng tưởng mọi việc đã tạm ổn định và tưởng Kim dễ dãi bỏ qua luôn.

     Nào ngờ không đầy một năm sau quân
Kim bất thần tấn công trở lại, vây  hãm kinh đô. Vua Tống lần này
phải trói mình đi bộ tới trại Kim để xin cầu hòa lần nữa. Quân Kim trở mặt đòi
hỏi rất nặng.

                    - 1,000 vạn lạng
vàng

                    - 2,000 vạn lạng
bạc

                   - 1,000 vạn tấm
lụa

      Vua Tống không biết làm sao thu
góp đủ. Quân Kim liền bắt luôn vua Tống Khâm Tô, Thượng Hoàng Huy Tôn, Thái Tử,
hậu phi và hoàng tộc tất cả 3000 người dẫn về nước Kim. Lại cho lệnh lính Kim
được tự do cướp phá, tịch thu vàng bạc của cải, bắt đàn bà con gái trong kinh đô
mang về nước. Đó là năm 1127. Đoàn người bị dẫn độ đói khát, rét lạnh chết dần
chết mòn gần hết.

      Đời Bắc Tống chấm dứt từ đây. Lịch
sử ghi lại chưa bao giờ TQ lại bị nhục nhã như vậy. Quân Kim chiếm hết vùng Bắc
Trung Hoa chỉ trừ đất Tây Hạ. Người Kim rất tham lam tàn bạo, họ chiếm ruộng
đất, cướp bóc của cải. Họ coi người TQ như nô lệ. Đại Kim tìm một người Tống tên
là Trương Bang Xương làm tay sai và phong cho làm Sở ĐẾ rồi rút một phần quân
về. Vì Kim không đủ người để cai trị và thiếu quân canh giữ nên cứ để nước Tống
làm chư hầu với điều kiện hàng năm phải có triều cống vàng, bạc, lụa là và hễ có
dịp lại lấy cớ cắt thêm đất như tầm ăn dâu vậy. Trương Bang Xương biết mình là
bù nhìn không có khả năngbè kiếm  một thân vương tôn làm vua gọi là
vua Cao Tôn. Cao Tôn biết không thể khôi phục được vùng đất đã mất nên dời xuống
phương Nam. Từ đó được các sử gia gọi là Nam Tống. Nay vua Nam Tống ở xa xuống
phương Nam nên tránh được mọi va chạm với nước Kim. Từ đó Nam Tống và Đại Kim
cân bằng thế lực. Tại miền Nam nhà Tống còn kéo dài thêm 150 năm nữa. Thời vua
Cao Tôn, Nam Tống có một lỗi lầm lớn là nhà vua nghe lời một gian thần là Tần
Cối đã giết chết một tướng giỏi là Tống Nhạc Phi có khả năng cự địch được với
Kim. Nam Tống chủ trương cầu hòa bất cứ giá nào với Kim do đó năm 1141 vua Nam
Tống xưng thần với Kim và được vua Kim phong cho chức Khang Vương. Vua Nam Tống
cám ơn và cắt đất phía bắc Hoài Thủy và Đại Tán Quan để nhường cho Kim. Rồi mỗi
năm theo lệ phải cống:

                               - 25 vạn
lượng bạc

                                -
25 vạn tấm lụa

   Năm 1165 đời Hiếu Tôn (1163-1189),
vua Kim giảm số lượng cống phẩm xuống:

                                -
20 vạn lượng bạc

                               - 20 vạn
tấm lụa

                              - Vua Nam
Tống phải gọi vua Kim là Bác và được coi là hàng con cháu.

      Năm 1208 đời Minh Tôn (1196-1224)
nước Kim có nội loạn, vua Nam Tống muốn nhân cơ hội đó đánh báo thù. Buồn thay
Nam Tống lại thua to, phải xin nghị hòa. Nhưng vua Kim rất tức giận đòi hỏi cống
phẩm phải tăng lên

                                  -
30 vạn lạng bạc

                                 - 30 vạn tấm lụa

                                 -
Cắt thêm một số đất

   Từ đó Nam Tống chỉ còn giữ được lưu
vực sông Dương Tử và vài tỉnh sát biển phía Nam.

      Tóm lại triều đại nhà Tống gồm Bắc
Tống, Nam Tống kéo dài từ năm 960-1278 hơn 300 năm luôn luôn bị người Liêu, Tây
Hạ, Kim áp bức. TQ hầu như là bán thuộc địa của Kim.

      Cho tới cuối thế kỷ thứ 12, hai
nước Tống và Kim đã đi vào nề nếp trên dưới phân minh. Kim rút bớt đồ cống phẩm
xuống còn

                                      - 10 vạn lạng bạc

                                     - 10 vạn tấm lụa

      Hai bên đều xưng Đế, nhưng vua
Tống phải gọi vua Kim là Bác và xưng cháu. Tóm lại vẫn là nước phụ dung của Kim.
Dân Kim giảm cuộc sống du mục, dùng chữ Hán và yêu văn học TQ. Thời đại hòa bình
khiến cả hai bên đều giảm việc binh bị thì một thảm khốc mới bắt đầu xuất hiện.
Đó là sự ra đời của nước Mông Cổ .

  *  Với nước Mông Cổ
(1277-1367).
Rợ Mông Cổ tự xưng là giống Sát Đát gồm nhiều bộ lạc Hung
Nô, Đột Quyết (Thổ), Mông Cổ. Mông Cổ chiếm đa số. Tất cả đều có cuộc sống du
mục. Quốc gia này cũng phát xuất từ phía Bắc Hắc Long Giang. Bản chất du mục vẫn
là cuộc sống di chuyển trên mình ngựa, ăn thịt, uống sữa, bắn cung và chiến đấu
rất mãnh liệt. Từ những thế kỷ trước tới thế kỷ XII cũng như nước Tống, Mông Cổ
bị nước Kim thống trị. Khi Kim- Tống được hưởng hòa bình và giảm các hoạt động
về binh bị thì Mông Cổ bắt đầu lớn mạnh và nhập cuộc. Vào đầu thế kỷ XIII Thiết
Mộc Chân ( Temoudjine) lãnh chúa một bộ tộc Mông Cổ thống nhất được nhiều bộ tộc
du mục khác nên năm 1206 lên ngôi Đại Hãn (Hoàng Đế) lấy hiệu là Thành cát Tư
Hãn (Gengis Khan)

       Năm 1210 đánh kim, chiếm Tây
Kinh. Kim bị thua lớn phải xin hòa và xin nộp cống vàng, bạc, lụa, phụ nữ. Lại
còn phải dâng một công chúa thật đẹp cho Thành cát Tư Hãn làm thiếp. Mông Cổ
chấp thuận sự thần phục của nước Kim rồi chuyển hết quân đánh qua phía Tây chiếm
nhiều nước tại Trung Á, tiến tới biển Hắc Hải. Cuối cùng là vây và hạ thành Kiev
của nước Nga.

       Về chiến thuật, Mông Cổ nêu rõ
một nguyên tắc bất di bất dịch  "Hàng thì có đãi ngộ mà nếu chống
lại thì sẽ bị tàn sát tới ngọn cỏ lá cây".

        Quân Mông Cổ chỉ biết có một thứ
luật. Đó là luật lãnh tụ.  Được lệnh tiến là phải tiến, dù tiến có
phải chết. Tướng sĩ lúc nào cũng sẵn sàng trên yên ngựa trong cuộc trường chinh
nhiều ngày trên những đoạn đường thật dài. Các sử gia Tây phương đã ghi nhận sự
tàn bạo của lính Mông Cổ. Đốt phá, giết cả phụ nữ lẫn trẻ nhỏ. Sọ người chất cao
như núi. Tới nước Nga rồi Thành Cát Tư Hãn ra lệnh rút về và chia đất đã chiếm
được cho 4 con trai trở thành 4 Hãn quốc.

       Quân trở về lại tiếp tục chiến
dịch chinh phục phía Đông.

      Hai đứa con khác là Oa Hoạt Đài và
Hốt Tất Liệt có nhiệm vụ thanh toán các lực lượng đối kháng phía Đông gồm hai
nước Kim và Tống. Oa Hoạt Đài sẽ diệt nước Kim và Hốt Tất Liệt mưu đồ diệt Tống.
Để mưu đánh nước Kim, Mông Cổ sai sứ sang gặp vua Tống để lập một liên minh diệt
Kim. Vua Tống rất mừng rỡ nghĩ có dịp trả thù và thu hồi lại đất đai đã cắt
nhường. Liên quân Tống, Mông Cổ đại thắng Kim và xoá sổ nước này. Nhưng Mông Cổ
bội ước đánh ngược lại quân Tống. Năm 1260 Thành Cát Tư Hãn mất, Hốt Tất Liệt
lên ngôi gọi là Thế Tổ nhà Nguyên và tập trung quân đánh thẳng vào đất Tống.
Tống quân đại bại và đã ba lần xin hòa và chỉ xin trở thành một tiểu quốc để lo
tế tự Tiên đế. Nhưng Mông Cổ không chịu. cuối năm 1276, Mông Cổ bắt được vua
Tống và toàn gia giải về phương Bắc trị tội. Toàn thể đất đai của TQ bị đặt dưới
sự đô hộ của người Mông Cổ. Triều đại Mông Cổ nhà Nguyên đã thống trị TQ 90 năm.
(1)

      Các sử gia TQ luôn luôn mập mờ cho
rằng nhà Nguyên là một triều đại của TQ và coi sự xâm chiếm của Mông Cổ là một
nội chiến. Thực tế Mông Cổ là quốc gia Mông Cổ không phải là TQ. Các sử gia Mông
Cổ hiện đại cũng như chính quyền Mông Cổ hiện nay rất bực tức về điều mập mờ,
gian lận này. Với ẩn ý là đất đai, lãnh thổ Mông Cổ thuộc TQ.

              Trên thực tế Mông Cổ cai
trị TQ 90 năm kể từ 1277-1367.

       Một viên Thượng thư Mông Cổ nói:
"Tụi TQ này không có ích lợi gì cho chúng ta hết. Ta phải giết hoặc đuổi chúng
đi. Ruộng đồng của chúng sẽ là đồng cỏ nuôi ngựa". Một viên Thượng thư khác đề
nghị: "Phải tiêu diệt 5 gia tộc lớn nhất của TQ để chúng khỏi cầm đầu phong trào
chống lại chúng ta".

      Hốt Tất Liệt đạt ra những luật lệ
kỳ thị chủng tộc hiếm có ở các xã hội phương Đông trước đó. Xã hội TQ bị chiếm
đóng chia làm 4 hạng người.

              1 - Người Mông Cổ: Là tối
ưu, được đặc quyền đặc lợi, có quyền sinh quyền sát người TQ.

             2 - Người Trung Á : Đứng
thứ hai là những người thuộc dân tộc Trung Á, đa số là dân du mục không phải là
TQ. Họ thường có gốc gác là người Khiết Đan, Uy Ngô Nhĩ hoặc Tây Tạng mà văn hoá
du mục và huyết thống rất gần gũi với Mông Cổ. Những người này gọi chung là "sắc
mục" cũng được hưởng những đặc quyền về chức vụ chỉ huy, lợi lộc kinh
tế

              3- Người TQ gốc tích tại
phía Bắc: Vì sống gần gũi với dân du mụcnên đã đồng hóa ít nhiều với các Rợ.
Đáng tin cậy một chút, được dùng làm nha lại, chỉ điểm.

               4 - Người TQ
gốc tích tại phái Nam thường dị ứng với văn hoá và lối sống du mục. Họ không
được tin cậy. Phải coi chùng và thẳng tay đàn áp nếu cần. Cách phân loại trên
dựa vào chủng tộc.

       Còn về giai cấp trong xã hội thì
người Mông Cổ sắp xếp thứ bậc 10 loại người. Hoàng gia Mông Cổ là ngoại hạng.
Tất cả mọi người phải tôn kính và bị trừng trị nặng nề nếu tỏ ra bất
kính.

         1- Quan lớn trong triều phải là
người Mông Cổ. Các quan cai trị đầu tỉnh là người Mông Cổ hoặc là người "sắc
mục" là thứ bậc số 1. Ưu đãi mọi mặt về chính trị, kinh tế và luật
pháp.

         2- Quan nhỏ quận huyện địa
phương thường là người "sắc mục" Trung Á.

         3- Lạt ma là các thầy tu Mông
Cổ và Tây Tạng.

         4- Đạo sĩ

         5- Thầy thuốc điều trị
bệnh.

     6 - Thợ và các người
hành nghề tiểu công nghệ

     7- Thợ săn thú

     8- Ca kịch sĩ, con hát

     9- Nho sĩ đạo Nho, đạo
Khổng.

   10- Ăn mày, những người nghèo khỏ ăn
xin.

  Sự sắp xếp này hoàn toàn khác với lề
lối sắp xếp Sĩ , nông, công, thương của TQ.

    Mông Cổ rất khinh ghét đạo Nho, đạo
Khổng được coi trên tụi ăn mày và ăn xin một chút. Dân du mục cần đồng cỏ nuôi
gia súc, không cần nông dân canh tác nên bị coi thường, nằm ngoài 10 loại người
kể trên.

    Dưới sự cai trị của Mông Cổ, mọi
sinh hoạt trong xã hội TQ có những thay đổi lớn.

    - Người TQ nào được bổ dụng vào
những chức vụ thường là cấp thấp đều phải học và nói tiếng Mông Cổ, theo tôn
giáo của người Mông Cổ.

     - Y phục phải bỏ kiểu cũ. Kiểu mới
Mông Cổ là ống tay áo hẹp và khuy áo cài bên trái

    - Tóc không được búi mà phải xếp
thành 2 bím thả dài xuống lưng.

    - Người TQ không được kết hôn với
người Mông Cổ và người "sắc mục". Phạm luật sẽ bị xử rất nặng.

    - Về luật pháp, có 2 hệ thống luật
pháp khác nhau cho người Mông Cổ và người TQ. Cùng mắc tôi ăn cắp, người Mông Cổ
chỉ bị phạt vạ còn người TQ thì bị xâm vào tay, vào cổ, vào mặt.

     Mắc tội giết người. Nếu người TQ
giết người Mông Cổ hay "sắc mục" thì chẳng cần hỏi phải trái, kẻ sát nhân bị tử
hình, gia đình còn phải chịu thêm tiền phạt vạ về ma chay chôn cất.

      Nếu người Mông Cổ hay "sắc mục"
giết người TQ thì kẻ sát nhân chỉ bị phạt vạ.

   - Về tài sản thì bất cứ ruộng đất,
nhà cửa, ngựa lừa khi nhà nước Mông Cổ cần là có quyền trưng thu.

  - Về vũ khí, đồ bén nhọn, người TQ bị
cấm tồn trữ các loại đao, búa, dao, hoặc các loại vũ khí khác. Cung tên cũng bị
cấm xử dụng nên người TQ không được săn bắn. Năm gia đình mới được phép có 1 con
dao cắt thịt.

   - Về thi cử lúc đầu cấm người TQ
không được dự các kỳ thi. Về sau được thi nhưng phải thi riêng không được thi
chung với người Mông Cổ và "sắc mục" . Nếu đậu thì tên được nêu trên một bảng
riêng phía bên trái. Bảng bên phải dành cho Mông Cổ và "sắc mục".

      Mông Cổ có loại chữ viết khác với
chữ Hán, và dân TQ không được viết, đọc văn, diễn tuồng có lời phạm thượng Mông
Cổ. Phạm tội bị tử hình. Chính vì chính sách cai trị quá khắc nghiệt đối với một
nước TQ sống bằng nông nghiệp đã bị đói khổ vì đồng ruộng biến thành đồng cỏ mà
Chu Nguyên Chương, con mồ côi của một nông dân nổi loạn và đã đánh đuổi được
Mông Cổ ra khỏi đất nước. Dựng nên triều đại nhà MInh.

* Nhà Minh (1368-1644) .
Trương Phụ được lệnh xâm lăng VN với danh nghĩa phù Trần diệt Hồ (Hồ Quý Ly) vào
năm 1414 và rút khỏi năm 1427. Nhưng từ năm 1478 nghĩa là 4 năm sau cuộc xâm
lăng của Trương Phục đã bị Lê Lợi nổi lên 1418 và đánh đưổ hết quân Minh vào năm
1427, nghĩa là mất 10 năm kháng chiến. Điều này chứng tỏ quân Minh không quá
mạnh.  Tuy đời nhà Minh có viên quan Trịnh Hòa gốc người Hồi Giáo
đưa môt hạm đội đi xa vào Đông Nam Á tới châu Phi, nhưng thực chất người TQ ít
quan tâm đến biển cả. Nhật Bản luôn luôn là mối đe dọa cho TQ. Dọc theo chiều
dài bờ biển, TQ luôn bị"Nụy Khấu" (giặc lùn) Nhật Bản cướp phá. Cuối thế kỷ 16.
Năm 1560 Nhật Bản tấn công TQ qua sự chiếm đóng Triều Tiên và đã tiêu diệt
khoảng 200,000 quân TQ. Cuộc chiến kéo dài tới năm 1598 mmói ngưng, và từ đó
triều đại nhà Minh suy sụp.

      Triều đại nhà Minh là triều đại để
ý rất nhiều đến việc tu bổ Vạn Lý Trường Thành để đề phòng quân phương Bắc tới
chiếm. Dù đề phòng cẩn mật thế nàochăng nữa thì giống dân Mãn Châu theo truyền
thống nhiều đời vẫn hiếp đáp và cai trị TQ.

      Đời Tống, dân Khiết Đan vùng Mãn
Châu lập nên nước Liêu đã áp bức và tàn phá TQ. Rồi Liêu biến thành Đại Kim
chiếm gần hết phía Bắc TQ, đẩy nhà Tống xuống phương Nam thành Nam
Tống.

     Nam Tống bị tiêu diệt hoàn toàn, cả
nước TQ biến thành nước Nguyên (Mông Cổ).

     Nhà Minh nổi lên đánh đuổi Mông Cổ
sau 90 năm bị cai trị (1277-1367).

     Nhà Minh lại bị quân Mãn Châu (con
cháu Liêu và Đại Kim) đánh bại. Quân Mãn Châu gọi là Mãn Thanh. Cả nước TQ biến
thành nước Thanh (Mãn Châu).

       Tôn Dật Tiên nổi lên đánh đổ
triều đại Mãn Thanh sau 267 năm bị Mãn Thanh cai trị (1644-1911).

       Cả hai thời kỳ TQ bị mất nước do
các nước Mông Cổ và Mãn Châu tới chiếm. Mông Cổ mở ra một đế quốc lớn nhất thế
giới mà trong đó đất đai của TQ là một phần của đế quốc Mông Cổ.

       Người Mãn Thanh cũng mở ra một đế
quốc Mãn Thanh rất lớn bao gồm Mông Cổ, Tây tạng, Tân Cương mà trong đó đất đai
của TQ cũng chỉ là một phần của đế quốc Mãn Thanh.

      Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm
1912, vua Phổ Nghi, Mãn Thanh bị lật đổ, đã phục quốc bằng sự giúp đỡ của Nhật
Bản và nước Mãn Châu Quốc ra đời (4) như vậy trong Thế chiến thứ hai (1939-1945)
trên bản đồ Á Châu phía Bắc TQ có hai nước độc lập là Mông Cổ và Mãn Châu. Trong
thời kỳ Mãn Thanh cai trị TQ (1644-1911), họ cũng giống như Mông Cổ rất tàn nhẫn
với nhân dân TQ. Họ áp dụng 2 chính sách cứng rắn và mềm dịu.

   1- Chính sách cứng rắn gồm có những
biện pháp sau đây:

             - Y phục phải bỏ kiểu cũ,
phải ăn mặc kiểu Mãn Châu (2).

               - Tóc không được búi tó
mà đầu phía trước phải cạo sạch một nửa, nửa sau tóc kết thành một bím lớn và
dài như đuôi ngựa thả xuống lưng. Thời Mông Cổ thì kết thành hai bím hai bên
(3).

              - Người TQ không được kết
hôn với người Mãn Châu. Phạm tôi sẽ bị xử tội rất nặng.

              - Cấm người TQ không được
lập xã (đoàn thể) , lập hội.

              - Cấm người TQ không được
viết, đọc văn, diễn tuồng có lời phạm thượng nhà Thanh, có tư  tưởng phục hồi nhà Minh. Phạm tội bị tử hình.

2/ Chính sách mềm dịu, dung nạp gồm những biện pháp
sau đây:

             - Xá tội cho các cựu thần
nhà Minh một khi đã thần phục chế độ mới.

             - Tha thứ cho
một số thuế quá hà khắc.

             - Giúp đỡ dân nghèo không
có phương tiện mưu sinh.

             - Cho người TQ được học
hành thi cử.

             - Được giữ các chức phụ tá
cho người Mãn Thanh.

             - Cả hai ngôn ngữ TQ và Mãn
Châu đều được khuyến khích.

      Mãn Thanh sau khi chiếm được toàn
cõi TQ đã mở rộng đế quốc bằng cách chiếm đóng Đài Loan (1683), chiếm đóng Mông
Cổ (1691), chiếm đóng Tây Tạng (1751) và chiếm đóng Tân Cương
(1759).

     Thế kỷ 19 là thời kỳ suy thoái của
đế quốc Mãn Thanh. Nhật, Nga, Pháp, Đức, Anh, v.v.. đã xâu xé đế quốc này. Pháp
xâm chiếm VN và VN yêu cầu Mãn Thanh cứu giúp. Thực tế Mãn Thanh quá yếu nhưng
cố giữ cửa phía Nam nên đã giao tranh với quân Pháp và dùng vị trí VN để trao
đổi với Pháp lấy một nền hoà bình phương Nam. Việc ký hoà ước 1885 của Pháp với
Thanh là để thương lượng cho một tranh chấp giữa 2 quốc gia về một giải đất ảnh
hưởng. Giải đất ấy thực tế không phải là của Pháp hay của Mãn
Thanh.

Kết Luận

      VN-TQ là hai quốc gia có một định
mệnh rất giống nhau. Đó là luôn luôn bị quốc gia phương Bắc khống chế và tìm
cách chạy trốn về phương Nam. Để tồn tại cả VN và TQ nhiều khi đã chấp nhận
những tủi nhục như cầu phong, triều cống phẩm vật và đôi khi cả
người.

      Mông Cổ và Mãn Châu là hai quốc
gia truyền kiếp ức hiếp TQ qua mọi thời đại Hán, Đường, Tống, Minh.

      Thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20
TQ là thuộc quốc của Mãn Thanh. Vua Quang Trung Nghuyễn Huệ vào thời kỳ này đã
đánh đuổi được quân Mãn Thanh và giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ. Thời kỳ đó TQ là
thuộc quốc của Mãn Thanh, còn VN là một quốc gia độc lập với Mãn Thanh thì việc
gọc giả Vương Hàn Lĩnh, một học giả của TQ hiện nay tuyên bố cho tới năm 1885 VN
là thuộc quốc của TQ là một điều hết sức sai trái.

      Các nhà sử học TQ  thường hay viết mập mờ các triều đại Nguyên (Mông Cổ) 
Mãn Thanh (Mãn Châu) là hai thời kỳ phong kiến trong lịch sử TQ (4). Phải nói
lại thật đúng là hai thời kỳ ngoại bang cai trị TQ. Ngày nay còn lại trên bản đồ
thế giới một nước Mông Cổ là hội viên của LHQ. Còn Mãn Châu Quốc đã bị tan biến
mất một phần vào đất Nga, một phần vào đất TQ (sự kiện xảy ra vào năm
1945).

      Từ khi có cuộc cách mạng Tân Hợi
(1912) tại TQ và Mãn Thanh bị xụp đổ, vua Phổ Nghi vua của Mãn Thanh đã tìm một
giải pháp chính trị trở về cố quốc là Mãn Châu Quốc. Ông cựu hoàng này, vào thế
cùng, đã phải dựa vào thế lực của Nhật Bản là thế lực đối kháng với TQ. Mãn Châu
Quốc được hồi sinh vào năm 1932 và được rất nhiều quốc gia trên thế giới công
nhận.

      Tiếc thay sự thù hận của Mỹ và của
Nga đối với Nhật lại được đổ lên đầu vua Phổ Nghi là đồng minh của Nhật Bản.
Người ta tuyên truyền rằng vì vua Phổ Nghi là tay sai, là bù nhìn của Nhật Bản
nên Mãn Châu Quốc phải bị đập vỡ.

      Khi đế quốc Mãn Thanh bị sụp đổ,
các vùng đất bị đế quốc Mãn Thanh chiếm đóng, bao gồm cả TQ và các quốc gia khác
như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng cùng các quốc gia phiên thuộc (độc lập nhưng
phải triều cống) như Cao Ly, VN, Miến Điện, Thái Lan trên nguyên tắc được buông
thả để độc lập tự chủ. Nhưng người TQ nhân cơ hội đế quốc Mãn Thanh sụp đổ lại
đưa ra các lý luận mập mờ rằng triều đại nhà Thanh của TQ nay không còn nhưng
quốc gia TQ còn đó. Các đất đai của triều đại Mãn Thanh là đất đai của TQ. Kể cả
Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông đều đưa ra lý luận vu vơ rằng
người Tây phương (da trắng) và người Nhật Bản nhân cơ hội TQ yếu kém đã xâm
chiếm đất đai và phiên thuộc của TQ, nay TQ có bổn phận phải thu hồi. Thời Mao
Trạch Đông TQ cho in bản đồ mới bao gồm tất cả các quốc gia trên trong đó có VN
thuộc vào lãnh thổ TQ. Điều này thật vô lý nếu ta thấy rằng sau khi đế quốc Anh
sụp đổ mà Ấn Độ lại tuyên bố các vùng đất Miến Điện, Mã Lai, Singapore, Bhutan
v.v.. thuộc về Ấn Độ và Ấn Độ có bổn phận thu hồi !. Điều vô lý này TQ vẫn cứ
tuyên bố phải thực hiện.

       Người TQ rất thích thú thấy người
Mãn Châu nói tiếng TQ và coi đó là một yếu tố quan trọngđể minh định Mãn Châu
Quốc là đất của TQ. Thực tế trên thế gới có nhiều nước khác nhau nhưng nói cùng
một ngôn ngữ và có cùng một văn hóa như nước Bỉ, nước Lục Xâm Bảo đối với nước
Pháp, như nước Canada đối với Hoa kỳ, nước Mễ Tây Cơ và nhiều nước nam Mỹ đối
với nước Tây Ban Nha.

       Việc TQ cho dân Mãn Châu Quốc có
cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa với TQ là công dân của TQ là sự cưỡng bức kẻ thất
thế.

       Dân TQ là một dân tộc có nền văn
minh lớn, sống định cư, với lối sinh hoạt làng xã và đại gia đình, không thích
rời quê cha đất tổ chỉ trừ những trường hợp bắt buộc (5). Điều này rất phù hợp
với lối sống truyền thống VN.

       Từ vấn đề địa lý, đến truyền
thống sinh hoạt đã làm cho dân tộc đó không có năng khiếu và ham thích chiến
tranh. Lịch sử TQ chỉ rõ dân TQ chạy xuống phương Nan và "tầm thực" cũng rất
giống với lịch sử Nam Tiến của người VN. Nhưng cũng vì sự yếu kém của TQ mà VN
tồn tại. Cũng vì sự yếu kém của VN mà nước Lào thênh thang kế bên VN vẫn còn
nguyên vẹn. TQ có tính tham lam và thích phô trương nên đã tạo ra những mập mờ
trong sử sách để họ mưu toan chiếm cứ các quốc gia lân bang. Lịch sử từ lâu đã
không chiếm được thì giờ đây việc mở rộng đế quốc cũng chẳng dễ gì. Cái yếu của
TQ và VN là người dân khó đoàn kết vì thế ngoại bang dễ ảnh hưởng và tạo ra rối
loạn.

                                                                                                                                                     Bùi Khiết


Tài liệu tham khảo:

- Sử Trung Quốc -  Nguyễn Hiến Lê, Văn
Nghệ xuất bản, California 2003

- Trung Quốc Sử Cương - Phan Khoang, Dainam Co,
California

- Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn, Tủ Sách Sử
Học

- Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim, Sống Mới, USA
1978

- Sử Ký - Tư Mã Thiên - Văn Học , Việt Nam
1994

- Histoire de la Chine et de la civilisation
Chinoise  - Tsui Chi, Payot 1948

- Tài liệu online Wikipedia về China, Mongolia,
Manchouria

Cước chú và ghi thêm:

(1)  Chủ điểm của bài viết
về Mông Cổ xâm chiếm TQ nên lược bỏ về những vùng đất đai Mông Cổ đã chiếm và
những cuộc chiến thất bại tại VN và Nhật Bản

(2) (3)  Việc thay đổi y phục và kết bím
để giống người Mãn Châu cũng có một liên quan tới một nhân vật lịch sử VN. Đó là
ông Lê Quýnh bộ hạ của vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang TQ sau khi quân Thanh
bị vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá. Vua Lê cứ kèo nhèo xin viện binh và mở
lại một mặt trận nữa. Các quan Mãn Thanh biết là việc này không làm nổi nên muốn
đày mỗi vị đi một nơi để hội nhập vào TQ. Lê Quýnh ra đi vì mục đích chính trị
chống Tây Sơnchứ đâu muốn tỵ nạn nên tức tối trả lời khi bị ép thay đổi y phục
và kết bím tóc. Ông nói "Đầu ta có thể chặt, chứ tóc ta không thể cắt. Da ta có
thể lột chứ áo quần ta không thể đổi". Lê Quýnh bị chặt đầu chết bởi quân Mãn
Thanh.

(4) Năm 1921 Mông Cổ tách được ra khỏi TQ và lập
thành nước Cộng Hòa Mông Cổ. Từ ngày đó các sử gia Mông Cổ và chánh quyền Mông
Cổ xác định triều đại nhà Nguyên là triều đại của lịch sử Mông Cổ chứ không phải
là triều đại của lịch sử TQ. Họ tố cáo các sử gia TQ mập mờ đánh lận con đen để
chính thức hóa sáp nhập Mông Cổ vào TQ và coi dân Mông Cổ như là một loại dân
thiểu số của TQ. Như vậy cuộc chiến tranh dưới thời nhà Trần của VN là với Mông
Cổ còn TQ chỉ là thuộc quốc của Mông Cổ. Không thể gọi "quân Nguyên là quân
Tầu". Đây là một sự mhầm lẫn lớn.

    Năm 1932 vua Phổ Nghi của triều đại
Mãn Thanh bị cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Dật Tiên lật đổ, (Tôn Dật
Tiên người gốc Quảng Đông dòng dõi Bách Việt nhưng "hồ hởi phấn khởi" tự nhận là
dân tộc Hán) đã tìm thế liên minh chính trị với Nhật Bản để thành lập Mãn Châu
Quốc. Bằng sự kết hợp thông minh và khôn khéo Mãn Châu Quốc được thế giới công
nhận. Năm 1932 có rất nhiều cường quốc trên thế giới gửi thư chúc mừng và có
liên lạc ngoại giao với cấp bậc đại sứ. Vua Phổ Nghi lúc đó là Hoàng Đế của Mãn
Châu Quốc niên hiệu Khang Đức, quốc hiệu Mãn Châu Đế Quốc. Ông Trịnh Hiếu Tư là
thủ tướng đầu tiên.

       Mãn Châu Quốc được Vatican công
nhận, rồi lần lượt Nhật Bản (1932), Ý Đại Lợi (1937), Tây Ban Nha (1937), Đức
(1938), Ba Lan (1939), Hungary (1939), Slovakia (1940), Romania (1940), Bulgaria
(1941 (Phần Lan (1941), Croatia (1941), Thái Lan (1941), Pháp (1941), Liên Xô
(1941) và cả chính quyền TQ (Uông Tinh Vệ) (1941),v.v...

       Buồn thay vì thế chính trị của
Mãn Châu Quốc liên kết và có ảnh hưởng của Nhật Bản (cũng như miền Bắc VN) liên
kết và có ảnh hưởng của TQ trước năm 1975) mà bị hai nước lớn nhất lúc bấy giờ
là Hoa Kỳ và Liên Xô nhìn với con mắt rất thù ghét. Hoa kỳ thù Nhật Bản về các
mặt trận ác liệt tại Trân Châu Cảng và tại Thái Bình Dương do Nhật Bản gây
ra> Liên Xô hay nước Nga thời trước cách mệnh vô sản (1917) thù ghét vì Nhật
đã đại thắng nước Nga trong một cuộc chiến tranh chớp nhoáng (1904-1905). Sự thù
hận của hai nước này lại đổ lên đầu Mãn Châu Quốc. Sau thế chiến 1945, họ coi
Mãn Châu Quốc là tay sai của Nhật Bản cần phải trừng trị. Va tốt nhất được làm
món quà thưởng cho đồng minh TQ. Vua Phổ Nghi trở thành tù nhân của người TQvà
nước Mãn Châu bị xé nát. Liên Xô chiếm một mảng gọi là Ngoại Mãn Châu và TQ
chiếm một mảng gọi là Nội Mãn Châu. Sau khi được chia phần, TQ di rất nhiều dân
tới vùng này. Mãn Châu Quốc bị xóa nhòa trên bản đồ thế giới.

      Từ năm 1932 các sử gia Mãn Thanh
luôn luôn xác nhận triều đại Mãn Thanh thuộc lịch sử của Mãn Châu Quốc, vào thời
đó TQ là thuộc quốc của Mãn Châu. Chiến tranh giữa VN do vua Quang Trung lãnh
đạo là đánh nhau với quân Mãn Thanh, còn TQ chỉ là thuộc quốc của Mãn Thanh. Vậy
không thể gọi "quân Mãn Thanh là quân Tầu". Đây cũng lại là một sự nhầm lẫn lớn
nữa.

       Hiệp ước 1885 giữa người Pháp và
triều đình nhà Thanh là hiệp ước của hai nước Pháp và Mãn Châu tranh dành ảnh
hưởng trên vùng đất VN. Việt Nam, theo học gỉả Vương Hàn Lĩnh của TQ hiện nay
được cho là thuộc quốc của TQ cho đến năm 1885 là vô cùng vô lý. Vì vào 3 thế kỷ
17, 18, 19 TQ là thuộc quốc của Mãn Châu thì VN làm sao lại là thuộc quốc của TQ
?!. Các sử gia TQ cứ mập mờ một cách cố ý để rồi nhận vơ các nước lân bang là
đất đai cũ của mình bị người da trắng chiếm mất, nay cần thu hồi.

  (5) Chính sách khắt khe, tàn ác của
người Mãn Châu đối với người TQ và nhất là quyết tâm tiêu diệt tàn dư triều đại
nhà Minh khiến đã xô đẩy rất nhiều "thuyền nhân" TQ dùng ghe thuyền chạy trốn
xuống các quốc gia Đông Nam Á. Riêng tại VN, nhóm Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn
Địch vào lạy lục chúa Nguyễn Phúc Tần xin định cư tại Biên Hòa, làm ruộng, khai
rừng và buôn bán. Nhóm Mặc Cửu đổ bộ lên đất Hà Tiên lập ra một vùng trù phú độc
lập. Nhưng rồi vì thế yếu cũng xin quy phục chúa Nguyễn. Nhiều nhóm nhỏ khác đổ
bộ vào miền Nam VN đều được người VN thương hại giúp đỡ định cư. Họ gọi những
người TQ này là người Minh. Nơi làng xóm người Minh trú ngụ gọi là Minh hương
(làng người Minh). Ngày nay Minh hương có nghĩa rộng chỉ người TQ tới lập nghiệp
tại miền Nam VN.

      Xã hội TQ có thứ tự : Sĩ, nông,
công, thương. VN cũng bắt chước theo thứ tự đó. Người TQ khi định cư tại VN rất
khó tiến thủ về học vấn, trừ một số ít, vì có sự kỳ thị. Tiến thủ học vấn liên
quan tới cương vị chỉ huy. Ruộng đất canh tác vừa khó nhọc vừa hiếm và ở nơi xa
nên họ chọn đi vào thương nghiệp, buôn bán nhỏ và tiệm ăn. Đây là lựa chọn bắt
buộc mà lại thành công lớn vì xã hội cổ VN rất kỳ thị nghề buôn bán. Coi thương
nhân là người không lương thiện nên người VN không thích làm nghề này. Bản chất
người TQ không giỏi về thương nghiệp, nhưng khi di tản ra nước ngoài thì nghề
buôn giúp gia đình sống độc lập và tránh được các kỳ thị của người dân bản địa.
Từ đó nghề dạy nghề, truyền thống được tinh luyện khiến họ rất giỏi và rất đoàn
kết tạo thành công lớn trên thương trường 


Doc de hieu ro lich su VN va TQ.

 

Không có nhận xét nào: