Quan hệ Việt Nam- Trung quốc

Bành trướng Bắc kinh 1979



Thủy chiến Trường Sa 1988



Dự án tàu cao tốc cũng gây tranh luận tại Trung Quốc

clip_image001[4] 
Hành khách đón tàu cao tốc từ Vũ Hán tới Quảng Châu (Reuters) 
Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên đán, khoảng 230 triệu lao động Trung Quốc từ các thành phố, khu công nghiệp về quê ăn tết và tuyệt đại đa số đều đi tàu hỏa. Để mua được vé tàu là chuyện không hề đơn giản, có người phải xếp hàng chầu chực hai ba ngày, hoặc ngủ luôn tại nhà ga.
Năm nay, tại Trung Quốc, một bộ phận người lao động đã có thêm một sự lựa chọn mới: Đó là đi tàu cao tốc, tiện nghi và nhanh hơn. Thế nhưng giá vé lại đắt gấp ba lần vé tàu thường và chính điều này làm dấy lên những lo ngại là chỉ có người nghèo là tầng lớp bị thiệt thòi nhiều nhất.
Giáo sư họ Triệu thuộc Viện Quản lý Kinh tế, Đại học Giao thông Bắc Kinh, được hãng tin AFP trích dẫn nhận định, tàu cao tốc không phục vụ cho tầng lớp dân có thu nhập trung bình và thấp. Chỉ có người giàu hưởng lợi, cho phép họ có thêm một sự lựa chọn khác khi di chuyển. Ông nhấn mạnh, Trung Quốc xây dựng mạng lưới đường sắt là để thúc đẩy phát triển kinh tế chứ không phải để phục vụ một nhóm dân cư nào đó.
Mạng lưới tàu cao tốc Trung Quốc, rộng lớn nhất thế giới, đã phát triển nhanh chóng. Trong năm 2011, Trung Quốc dự tính đầu tư khoảng 106 tỷ đô la. Tháng trước, bộ trưởng phụ trách đường sắt Lưu Chí Quân nói rằng tổng số chiều dài tuyến đường tàu cao tốc của Trung Quốc có thể lên tới 13.000 km trong năm nay, tăng hơn 50% so với năm ngoái.
Theo một quan chức cao cấp trong ngành đường sắt Trung Quốc, vào dịp Tết năm nay, gần 20% số hành khách đã lựa chọn đi tàu cao tốc. Thế nhưng, nhiều người dân, giới chuyên gia và thậm chí ngay cả báo chí chính thức của nhà nước cũng bày tỏ lo ngại là việc phát triển hệ thống tàu cao tốc dồn ép những người có thu nhập thấp vào tình cảnh không có một sự lựa chọn nào khác là phải chi ra rất nhiều tiền để mua vé tàu khi đi lại. Tân Hoa Xã trích đăng lời than phiền của một công nhân, quê ở phía đông Hàng Châu. Anh cho biết là phải chi thêm 400 nhân dân tệ - khoảng 60 đô la - để mua vé tàu cho cả nhà, tức là chi thêm 1/3 lương tháng. Bình thường ra, với số tiền này, anh có thể mua được rất nhiều thứ để ăn Tết.
Hiện nay, cụm từ "Bị Cao Thiết", tức "bị đi tàu cao tốc", đang rất thịnh hành trong dân cư mạng, để mỉa mai tình cảnh buộc phải mua vé tàu đắt vì không mua nổi vé tàu thường. Họ phàn nàn chính phủ chỉ chú trọng phát triển tàu cao tốc, giá vé quá cao so với mức lương người lao động.
Giáo sư Patrick Chovanec, thuộc Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh, được trang mạng The Canadian Press trích dẫn, cho rằng sự ùn tắc hành khách và nạn khan hiếm vé tàu thường cho thấy các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã tính toán sai lầm. Đối với người lao động có thu nhập thấp thì tiền bạc quan trọng hơn thời gian. Trong khi giới lãnh đạo thì luôn bị ám ảnh bởi việc phải tạo dựng được hình ảnh về đất nước Trung Hoa hiện đại ở trong và ngoài nước và không tính toán đầy đủ xem công nghệ mới này có phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hay không.
Đối với ông Gerald Ollivier, chuyên gia về cơ sở hạ tầng làm việc cho Ngân hàng Thế giới tại Trung Quốc thì nhờ có tàu cao tốc, một bộ phận dân chúng sẽ sử dụng phương tiện này, qua đó, bớt đi lượng khách ở tàu bình thường. Nói một cách khác, tàu cao tốc chủ yếu làm tăng thêm khả năng lựa chọn phương tiện vận tải cho người dân. Để đánh giá sự cần thiết của tàu cao tốc, thì nên xem xét số lượng hành khách vào các dịp cao điểm như lễ hội, Tết Nguyên đán. Nếu đông khách thì có nghĩa là dự án đáp ứng nhu cầu vận tải.
Trong khi đó, giáo sư Triệu ở Đại học Giao thông Bắc Kinh nhấn mạnh, nạn khan hiếm vé tàu thường vào dịp Tết là do khả năng chuyên chở của ngành đường sắt thấp kém. Đây là hậu quả của chính sách đầu tư sai. Giải pháp hiện nay là cải thiện, nâng cấp hệ thống tàu thường hiện có. Thế nhưng, Trung Quốc vẫn tiếp tục đi lệch hướng và đó là một vấn đề lớn.
Nguồn: RFI

Cứu lấy sông Mekong bằng cách nào?

Ngọc Trân
Phần 1
imageSông Mekong đã và đang có những đóng góp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội cho Việt Nam. Bên cạnh việc cung cấp nước cho vựa lúa lớn nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long, với khoảng 80% lượng gạo xuất khẩu trên cả nước, sông Mekong còn cung cấp nước để khai thác và nuôi trồng thủy sản, đóng góp không nhỏ cho ngành xuất khẩu thủy sản trên cả nước.
Những đóng góp quan trọng của con sông Mekong cho sự phát triển ở Việt Nam nói riêng, và các nước trong khu vực nói chung, có lẽ sẽ không còn nữa nếu như chúng ta không có những hành động kịp thời để cứu lấy con sông, khi mà lượng nước đổ về hạ lưu Mekong đang ngày càng cạn kiệt. Thông tín viên Ngọc Trân phỏng vấn kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Hội Sinh thái Việt, để làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến con sông này. Mời quý vị cùng nghe.
Mekong cạn dòng
Ngọc Trân: Thưa ông Phạm Phan Long, theo thông tin từ Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission - MRC), một tổ chức gồm bốn nước: Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan, hồi tháng 11 năm ngoái cho biết, mực nước tại trạm quan trắc Chiang Saen, nơi gần biên giới Trung Quốc, đang từ 4 mét, đã giảm xuống chỉ còn 2 mét, tức giảm khoảng 50%. Mực nước ở tất cả các trạm từ Chiang Saen đến Tân Châu hiện cũng đã giảm từ khoảng 50% đến 70%. Riêng mực nước tại các trạm Vientian, Savanakhet, Tân Châu đã giảm đáng kể, xuống chỉ còn dưới 1 mét.
Hiện mực nước ở các vùng hạ lưu đã giảm xuống bằng mực nước những năm hạn hán 1992-1993 và 2003-2004. Năm ngoái, hạn hán đã gây thiệt hại nặng cho các khu vực hạ lưu và điều này sắp tái diễn trong năm nay. Biển Hồ Tonle Sap và vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao trong tương lai, thưa ông?    
Ông Phạm Phan Long: Nếu lưu lượng nước tiếp tục giảm như thế, lưu vực sẽ đi đến chết khát. Nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp, ba kế sinh nhai truyền thống ngàn đời của sáu mươi triệu dân cư lưu vực sẽ bị đe dọa.
Nạn nghèo, đói, thiếu nước và bệnh tật sẽ hoành hành cùng các hệ quả xã hội xấu đi kèm theo sau. An toàn thực phẩm và nguồn nước sẽ suy thoái đến độ dân cư không còn sinh sống được nữa. Ký giả, tác giả và đạo diễn TomFawthrop đã ghi nhận tình cảnh này trong phim tài liệu “Cá đã đi về đâu?” và BS Ngô Thế Vinh, tác giả “Dòng Sông Nghẽn Mạch”, cho rằng trái tim Biển Hồ sẽ dần dần ngừng đập.   
Đâu là nguyên nhân?
Ngọc Trân: Đâu là nguyên nhân gây ra nạn hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra và ngày càng khắc nghiệt trong những năm qua, thưa ông?
Ông Phạm Phan Long: Đã có rất nhiều tường trình khoa học nêu ra các nguyên nhân chính, cả thiên tai lẫn nhân tai. Thứ nhất, do biến đổi khí hậu bất thuờng, cho nên cả lưu vực có ít mưa hơn. Kế đến là nạn phá rừng đã làm biến mất thảm thực vật, vốn là kho trữ nước tự nhiên của lưu vực. Thứ ba là do các hồ chứa nước ở thượng nguồn, đã tích nước lại quá nhiều và quá nhanh. Và thêm một nguyên nhân nữa đó là, nước được chuyển ra khỏi dòng chính để canh tác. Tất cả đã góp phần gây hạn hán cho khu vực hạ nguồn sông Mekong.
Ngọc Trân: Ông vừa nhắc đến các tường trình khoa học về nguyên nhân gây ra hạn hán, lũ lụt ở hạ nguồn Mekong, theo các báo cáo của giới khoa học thì một trong những nguyên nhân chính gây nguy hại cho các nước hạ nguồn là việc phát triển các đập thủy điện ở thượng nguồn. Trên các con đập này, Trung Quốc đã cho xây trên dòng chính nhiều hồ lớn chứa nước rất lớn, vậy ông có biết Ủy hội sông Mekong đã đối phó với việc này ra sao?
Ông Phạm Phan Long: Suốt hai thập niên qua, trên thượng nguồn thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đã cho xây các đập Mãn Loan hồi năm 1993, đập Đại Chiếu Sơn năm 2001, đập Cảnh Hồng năm 2004, đập Tiểu Loan năm 2010 và đập Nọa Trác Độ sẽ hoàn tất trong năm 2014.
Mãi cho đến năm 2009, Ủy hội sông Mekong đã không làm nghiên cứu, đánh giá tác động môi trường chiến lược (Strategic Environmental Assessment - SEA) cho các dự án xây đập thủy điện nào ở tỉnh Vân Nam. Ủy hội sông Mekong cũng không phê bình Trung Quốc về việc thiếu nghiên cứu, đánh giá tác động môi trường đối với các nước hạ lưu. Tổ chức này cũng không hề chất vấn Trung Quốc về những hứa hẹn tốt đẹp của các đập ở tỉnh Vân Nam cho hạ lưu mà dân cư Mekong chưa bao giờ được thấy.
Các nước hạ lưu như Thái, Lào và Việt Nam đã xây nhiều đập trên các phụ lưu của từng nước, nhưng không có đánh giá tác động môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế và các nước này đang đưa ra một dự án, xây thêm mười một đập ngay trên dòng chính.
Mãi đến tháng 10 năm ngoái, Ủy hội sông Mekong mới đưa ra tường trình, thẩm định tác động môi trường 2010 của tám đập thượng nguồn ở tỉnh Vân Nam và mười một con đập ở hạ lưu sông Mekong. Trong bản đánh giá này, Ủy hội sông Mekong đã khuyến cáo bốn nước hạ lưu nên hoãn kế hoạch xây các đập trên sông Mekong trong mười năm, nhưng tiếc rằng họ đã không đề nghị Trung Quốc cùng ngưng xây đập hay cùng hợp tác với họ để bảo vệ hạ lưu sông Mekong.
Trung Quốc thiếu hợp tác với các nước hạ lưu
Ngọc Trân: Được biết, Trung Quốc vẫn cho rằng các hồ thủy điện trên phần đất Trung Quốc không gây tác động nào đối với các nước hạ nguồn mà còn giúp khu vực này có thêm 40% lưu lượng nước vào mùa khô và tránh lụt lội vào mùa mưa.
Một số tin tức cho biết, phía Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với các nước hạ lưu qua việc cung cấp thông tin về các con đập thượng nguồn cho Ủy hội sông Mekong, cũng như hồi mùa Hè năm ngoái, Trung Quốc đã mời các chuyên gia Ủy hội sông Mekong đến thăm hai đập Cảnh Hồng và Tiểu Loan, nhằm chứng minh rằng họ không tích nước gây hạn hán cho hạ lưu. Vậy quan điểm của ông, cũng như quan điểm chung của giới khoa học về vấn đề này như thế nào?     
Ông Phạm Phan Long: Tường trình khoa học về đánh giá tác động môi trường 2010 của Ủy hội sông Mekong đã xác định, tám đập Vân Nam sẽ giữ lại 80% lượng phù sa, không chảy xuống hạ lưu, gây ra 50% thất thoát trong thu hoạch ngư nghiệp. Hệ quả còn nặng hơn nữa, là vì ngư sản là nguồn cung cấp chất đạm chính cho dân cư trong khu vực, khi tính đến gia tăng dân số, thu hoạch ngư nghiệp tính trên đầu người so với năm 2000, chỉ còn có khoảng 60% vào năm 2015, còn 40% vào năm 2030.   
Từ 1995 đến nay, Trung Quốc đã xây bốn hồ chứa, có tổng dung tích gần 18 tỉ mét khối, nhưng qua tám mùa hạn hán trong 15 năm qua, chưa năm nào thấy Trung Quốc xả nước từ các hồ chứa đó để giúp các nước hạ lưu, cũng chưa có năm nào Trung Quốc giúp khu vực hạ lưu tránh được lũ lụt. Thêm vào đó, mực nước lên xuống thất thường từ Trung Quốc đã gây khó khăn cho hai nước Thái Lan và Lào. 
Mặc dù Trung Quốc có mời Ủy hội sông Mekong đến thăm hai đập Cảnh Hồng và Tiểu Loan ở Trung Quốc hồi tháng 6 năm 2010, nhưng Trung Quốc đã không cho các chuyên gia của Ủy hội được tự do quan sát và nghiên cứu. Nếu Trung Quốc thực tâm muốn hợp tác, họ đã mời các chuyên gia đến quan sát tất các hồ chứa nước ở Vân Nam, gồm các đập Đại Chiếu Sơn, Mãn Loan và Nọa Trác Độ, để công khai với các nước rằng, Trung Quốc không có gì để che giấu.    
Về thông tin Ủy hội sông Mekong xin các dữ kiện thủy văn của Trung Quốc và năm ngoái Trung Quốc có hứa cho Ủy hội các dữ kiện này, nhưng phía Trung Quốc chỉ cung cấp các dữ kiện được vài tháng rồi thôi. Phía Trung Quốc đã ngừng cung cấp các dữ kiện nói trên kể từ tháng 10 năm 2010 mà không hề đưa ra một lời giải thích nào cho công chúng. Sự việc này cho thấy, Trung Quốc không những đã không còn hợp tác với Ủy hội như họ đã tuyên bố, mà còn tạo thêm mối nghi ngờ cho các nước ở hạ lưu ngày càng sâu hơn.     
Con sông đã và đang nuôi sống hàng chục triệu cư dân ở các nước hạ nguồn đang từ từ bị giết chết. Trách nhiệm này thuộc về ai? Chính phủ và người dân ở các nước trong khu vực cần làm gì để cứu lấy sông Mekong trước khi quá muộn? Đó sẽ là nội dung của bài kế tiếp.
Phần 2
Nguồn nước trên sông Mekong đã và đang nuôi sống hàng chục triệu cư dân ở các nước hạ nguồn, đang dần dần cạn kiệt. Ai sẽ chịu trách nhiệm về cái chết đã được báo trước của con sông này? Các nước hạ nguồn nên có những hành động gì trước khi quá muộn? Mời quý vị theo dõi tiếp cuộc trao đổi giữa Thông tín viên Ngọc Trân với kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Hội Sinh thái Việt.
Trách nhiệm thuộc về ai?
Ngọc Trân: Thưa ông, trước thảm trạng thiên tai lẫn nhân tai xảy ra trên sông Mekong, ai sẽ là người chịu trách nhiệm? Chính phủ ở các nước hạ nguồn và Ủy hội sông Mekong đã làm gì để đối phó với sự cạn kiệt nguồn nước, môi trường ô nhiễm, đe dọa hàng chục triệu cư dân trong khu vực?      
Ông Phạm Phan Long: Chính quyền các nước hạ nguồn sẽ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm với dân cư lưu vực. Bốn nước hạ lưu như Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan đã ký Hiệp định sông Mekong từ năm 1995 và giao phó cho Ủy hội sông Mekong nhiệm vụ khuyến khích phát triển bền vững. Nhưng thực tế từ năm 1995 đến nay, Mekong đã phát triển không bền vững. Số lượng ngư sản đánh bắt đã giảm 50% và trọng tải phù sa cũng đã giảm 80%, trong khi nước mặn tiếp tục lấn sâu vào lục địa, phá hủy kinh tế nông nghiệp ở Đổng bằng Sông Cửu Long. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở vùng hạ lưu đã liên tục bị suy thoái trong suốt thời gian kể từ khi Ủy hội sông Mekong thành lập.
Ủy hội sông Mekong có chương trình quản trị hạn hán (Drought Management Plan - DMP) và lũ lụt (Flood Management Plan - FMP), thế nhưng các chương trình này chỉ là lý thuyết và hiện chỉ nằm ở các trang tài liệu, chứ chưa có hành động cụ thể nào có thể tin cậy được, nhằm giúp ngăn bớt hạn hán, chống bớt lụt lội khả dĩ bảo vệ được môi trường, kế sinh nhai, an toàn nguồn nước và thực phẩm của dân cư lưu vực.
Các tổ chức NGO quốc tế cũng như các chuyên gia khoa học đã cảnh báo về các tác động thiên tai lẫn nhân tai qua nhiều thập niên, nhưng chính quyền các nước hạ lưu sông Mekong đã không hành động, không nâng việc bảo vệ nguồn sống cho dân cư Mekong thành quốc sách với ưu tiên và hậu thuẫn chính trị tương xứng. Không những thế, tất cả các nước trong lưu vực đã và đang có hàng loạt dự án thủy điện và chuyển nước quy mô, điều này sẽ gây thêm nguy khốn cho dân cư lưu vực.   
Sáng kiến Langcang – Mekong
Ngọc Trân: Trước tình hình đó, chính phủ các nước hạ nguồn sông Mekong hiện cần phải làm gì để cứu vãn môi sinh và sinh kế cho toàn bộ dân cư trong khu vực hạ lưu?
Ông Phạm Phan Long: Chính quyền bốn nước và Ủy hội sông Mekong cần chấp thuận khuyến cáo đánh giá tác động môi trường của Ủy hội sông Mekong, quyết định ngưng xây đập Xayaburi ở Lào và 10 con đập còn lại trên sông Mekong. Ngoài ra, những biện pháp khác mà các nước hạ lưu có thể làm, bao gồm: lập quỹ bảo vệ môi trường và cứu trợ hạn hán, lũ lụt (Mekong Fund); phục hồi rừng và thảm thực vật; phát triển nông ngư nghiệp, sống với hạn hán và sống với mặn như đã sống với phèn và sống với lũ; phát triển hoạt động kinh tế huấn nghệ bớt dựa vào thiên nhiên sông hồ; trong 10 năm tới nghiên cứu thủy điện theo tiêu chuẩn quốc tế và cần có dung tích hồ chứa dành riêng cho ưu tiên chống lụt và giảm hạn.
Nguồn nước là tài nguyên thiên nhiên quý báu nhất mà các dân tộc chung một dòng sông đời đời cùng chia sẻ. Các dòng sông quốc tế chảy qua nhiều biên giới quốc gia thường trở thành nguồn gốc tranh chấp quyền lợi nước giữa các dân tộc. Trên thế giới có trên 300 dòng sông quốc tế và đã có trên 400 thỏa hiệp sông ngòi quốc tế. Âu châu đã có các thỏa hiệp quốc tế từ năm 1815, nhờ họ sớm nhận thức, tranh chấp không giải quyết sẽ là bức tường ngăn cản tất cả mọi cơ hội hợp tác kinh tế và chính trị khác, mà hậu quả là thiệt thòi nặng nề chung cho toàn lưu vực.
Trước sự suy thoái trên lưu vực Lancang – Mekong, sự vô hiệu của Ủy hội sông Mekong, sự vô cảm của Trung Quốc, cùng với sự bất lực của các nước hạ lưu và mối nghi ngờ Trung Quốc ở thượng lưu ngày càng sâu đậm, đã đến lúc phải tìm giải pháp toàn bộ cho lưu vực Lancang – Mekong.
Hội Sinh thái Việt trân trọng đề nghị lãnh đạo sáu nước Lancang – Mekong họp lại, cùng nhau tìm một đáp án quốc tế cho toàn khu vực bằng Sáng kiến Lancang – Mekong (Lancang Mekong Initiative - LMI). Chỉ khi nào cả 6 nước cùng nhau thương lượng ký kết một hiệp ước quốc tế Lancang – Mekong Treaty thì mới có thể mong cứu được Mekong.    
Dựa trên luật pháp quốc tế
Ngọc Trân: Theo ông thì có nên nâng cấp Ủy hội sông Mekong để cả 4 nước cùng Myanmar và Trung Quốc tham gia hiệp ước quốc tế này không?
Sáng kiến Lancang – Mekong (LMI) sẽ không thể thành công bằng cách làm theo Ủy hội sông Mekong, bởi vì Ủy hội đã đi vào bế tắc, mất sự tin cậy và không thể hiện được tư cách độc lập và khoa học trong sáng. Tuy nhiên Sáng kiến Langcang – Mekong không phải vì thế mà bắt đầu từ số không, bởi vì đã có sẵn những luật lệ sông ngòi quốc tế làm căn bản để thỏa hiệp.
Liên Hiệp Quốc đã thông qua bộ luật sử dụng nguồn nước quốc tế: “The United Nations Convention on the Law of the Non-Navigational Uses of International Water Courses” vào năm 1997. Các quy tắc mang tính quốc tế trong Helsinki Rules ra đời năm 1996 và Berlin Rules năm 2004 đều dựa trên nguyên tắc “không gây thiệt hại đáng kể cho các nước khác” và nguyên tắc “sử dụng hợp lý và công bình”, làm nền tảng thỏa hiệp giữa các dân tộc.
Từ nay đến năm 2014 là thời gian Trung Quốc hoàn tất đập Nọa Trác Độ và đây là thời gian ngắn ngủi còn lại cho các nước Lancang – Mekong kịp thời bảo vệ và vãn hồi môi sinh đang thoi thóp ở hạ lưu.
Sáng kiến Langcang – Mekong là cơ hội lớn để Trung Quốc cùng với các nước láng giềng chủ động thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước hạ lưu và uy tín của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tham gia, tiềm năng thành công của Sáng kiến Langcang – Mekong sẽ rất cao, bởi vì Trung Quốc có khả năng, phương tiện và uy tín trong khi các nước Mekong có thiện chí và nhu cầu cấp bách để hợp tác với Trung Quốc hơn bất cứ cường quốc nào khác trên thế giới vào lúc này.     
Ngọc Trân: Trung Quốc là một nước lớn ở trên thượng nguồn và họ không có nhiều quyền lợi ở dưới hạ nguồn, vậy họ có cần giải quyết tranh chấp Mekong với các nước nhỏ ở hạ lưu trong bối cảnh lịch sử hiện nay hay không, thưa ông?
Trung Quốc có quyền lợi chiến lược với ASEAN mà Trung Quốc cần phát triển và bảo vệ cho các nước này như chính họ, bởi vì tổng số mậu dịch của Trung Quốc với ASEAN là 300 tỉ đô la, ngang hàng và sắp vượt qua với khối Liên minh châu Âu, chỉ sau Hoa Kỳ. Nhận thức này sẽ đưa Lancang – Mekong lên hàng đầu trong các vấn đề bang giao của Trung Quốc trong khu vực và nhất là khi Trung Quốc biết nhìn xa như Hoa Kỳ và Âu châu.    
Sáng kiến Langcang – Mekong là đề nghị của Hội Sinh Thái Việt, nên hội sẽ giúp vận động, yêu cầu các NGO quốc tế, các học giả quốc tế, cũng như trí thức Trung Quốc và các dân tộc sống ở lưu vực sông Mekong cùng nhau thúc đẩy các chính phủ trong khu vực tiến hành Sáng kiến Langcang – Mekong như lộ trình tốt nhất để cùng phát triển bền vững toàn lưu vực, để không ai còn bị nghi ngờ là ích kỷ, thủ lợi một mình hay gây thiệt hại nặng nề cho một dân tộc nào ở hạ lưu phải gánh chịu.
Lịch sử sẽ không khoan dung nếu Lancang – Mekong không có một hiệp ước quốc tế khi cơ hội hy vọng cuối cùng vẫn còn. Các dân tộc và chính phủ Lancang – Mekong hãy viết nên lịch sử dòng sông bằng Sáng kiến Langcang – Mekong và cùng ký kết Lancang – Mekong Treaty, không phải đợi sau năm 2014 mà ngay trong năm 2011 để cứu lấy con sông Mekong và hàng triệu cư dân đang sống nhờ vào nó.    
Ngọc Trân: Xin cảm ơn ông đã dành thời gian cho buổi phỏng vấn này.
Nguồn: RFA

Người Trung Quốc nghĩ gì về Việt Nam?

Vương Cẩm Tư
clip_image001 
Các mũi tiến của quân Trung Quốc xâm lấn biên giới Việt Nam năm 1979
 
VIT - Vương Cẩm Tư người Cát Lâm, nay ở Bắc Kinh. Tốt nghiệp nghiên cứu sinh Đại học Bắc Kinh ngành truyền thông điện ảnh, từng làm nhà báo, ca sĩ. Nay hoạt động tự do. Hội viên Hội Lịch sử Thế chiến II TQ, nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế. Sau đây chúng tôi xin trích dịch bài viết suy nghĩ tìm hiểu về cuộc chiến tranh 1979 của Vương Cẩm Tư khi du lịch sang Việt Nam. Nội dung bài viết chỉ mang tính tham khảo, nó phản ánh quan điểm của một nguời dân Trung Quốc thuộc thế hệ trẻ.
Khác với tư duy quen thuộc của người Trung Quốc, trong mắt người Việt Nam, chiến tranh Trung-Việt không chỉ là cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam” kéo dài nhiều năm sau năm 1979 như dưới góc nhìn của người Trung Quốc, mà còn gồm cả cái gọi là sự “xâm chiếm” Việt Nam do các vương triều Trung Quốc trước đây tiến hành kéo dài tới hai nghìn năm kể từ thời Đông Hán.
Thượng tuần tháng 9 năm 2010, tác giả Vương Cẩm Tư xuất phát từ Bắc Kinh cùng mấy người bạn đến Việt Nam xem tình hình thị trường gỗ hồng mộc. Lúc rảnh rỗi, chúng tôi đã tìm hiểu về cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”.
Đối với một người lớn lên ở vùng Đức Huệ tỉnh Cát Lâm như tôi, Việt Nam là nơi rất xa xôi, hầu như tôi không có quan hệ gì với quốc gia này. Thế nhưng mối liên hệ [với Việt Nam] lại từng gần gũi đến thế, bởi lẽ hồi ở tuổi thiếu niên tôi nhận được sự giáo dục chủ nghĩa yêu nước chính tông và lây nhiễm chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quen thuộc “Phong thái nhuốm máu” và “Vòng hoa dưới núi cao” [bài hát và tiểu thuyết Trung Quốc viết về chiến tranh 1979], từng cùng thày trò toàn trường nghe các anh hùng Lão Sơn [một ngọn núi ở Hà Giang, nơi Trung Quốc tấn công lấn chiếm đất Việt Nam] báo cáo chuyên đề tại Cung Văn hoá công nhân Đức Huệ, tôi lại còn hăng máu đòi ra tiền tuyến Việt Nam liều mạng với quốc gia này mà không ngại hy sinh, cho dù sức mình còn chưa xách nổi ngọn giáo có tua hồng.
Để tìm hiểu cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”, tôi có chủ ý đi thăm Bảo tàng Quân đội Việt Nam tại Hà Nội. Thật may là Bảo tàng này ở ngay chếch phía trước Đại sứ quán Trung Quốc, cách chưa đầy 100 mét, nhà Bảo tàng không lớn.
Tác giả từng thăm Bảo tàng Quân sự cách mạng Trung Quốc tại Bắc Kinh, cảm thấy cực ký hùng vĩ, oách hơn Bảo tàng Việt Nam nhiều. Quy mô và phong thái hai nhà bảo tàng quân sự của hai nước nên là sự thể hiện và hình ảnh thu nhỏ các mặt sức mạnh kinh tế, diện tích lãnh thổ và sức mạnh quân sự của hai nước.
Nhưng vào xem thì căn bản chẳng có trưng bày nội dung về cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”, chỉ có các tư liệu Trung Quốc giúp Việt Nam chống Mỹ. Máy ảnh tôi mang theo thế là vô dụng, tôi cảm thấy có chút hẫng hụt.
Thỉnh thoảng có du khách Trung Quốc vào xem Bảo tàng, họ đến Việt Nam theo các đoàn du lịch. Khi nhập cảnh họ được [các nhân viên hải quan Trung Quốc] nhắc nhở chớ nói chuyện với người Việt Nam về cuộc chiến tranh này nhằm tránh tổn thương tình cảm của đối phương. Nhưng tôi thì bất chấp cái tình cảm gì gì ấy, xông thẳng tới hai nhân viên đứng ngoài sân Bảo tàng Quân đội Việt Nam hỏi cho ra nhẽ. Họ cũng mặc quân phục, một nam một nữ. Vì không hiểu tiếng Trung Quốc tôi nói nên họ lập tức đi gọi một hướng dẫn viên du lịch Việt Nam đến. Anh này chừng 30 tuổi, nói tiếng Trung rất thạo.
Nghe tôi hỏi đoạn lịch sử ấy, nụ cười của anh trở nên nghiêm trang: “Tôi biết Trung Quốc các ông tuyên truyền đây là cuộc chiến phản kích tự vệ, nhưng ông hãy thử nghĩ xem, có thể như thế được không? Việt Nam chúng tôi một nước nhỏ thế này mà có thể xâm lược nước các ông được sao? Hồi ấy cuộc Cách mạng Văn hoá của các ông vừa mới chấm dứt, rất nhiều mâu thuẫn và nguy cơ chưa giải quyết được, các ông bèn xâm lược Việt Nam để đổ vấy nguy cơ. Dĩ nhiên nguyên nhân không chỉ có vậy.”
Tôi nói, vì Việt Nam quấy nhiễu biên giới và xua đuổi Hoa kiều nên Trung Quốc mới phản kích tự vệ. Anh ta nói, chúng ta hãy tạm chưa tranh cãi ai sai ai đúng. Ai ngờ hướng dẫn viên du lịch Việt Nam này nhắc đến cả chuyện Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng Trung Quốc đi váo vùng biển đảo Điếu Ngư [Nhật gọi là Senkaku]. “Tôi thấy nhiều thành phố Trung Quốc bắt đầu [biểu tình chống Nhật], thực ra đó là kết quả việc chính phủ và giới truyền thông Trung Quốc kích động. Người Trung Quốc các ông quá thù hận. Người Việt Nam chúng tôi xưa nay không bao giờ thù hận nước khác, chúng tôi là một dân tộc hoà bình.” – anh nói.
Điều khiến tôi kinh ngạc không phải ở chỗ anh ta nói có đúng hay không mà là tôi không nghĩ anh hiểu Trung Quốc nhiều như vậy. Bên cạnh còn có một người Việt Nam biết tiếng Trung nói xen vào: Trung Quốc các ông một mặt nói thù hận là không hợp trào lưu của loài người, một mặt lại hết mức thù hằn Nhật Bản và các nước khác. Như thế chẳng phải là tự mâu thuẫn với mình, rất giả dối đó sao? Kinh tế các ông có thành công nữa cũng không được người ta tôn trọng.
Tôi bảo, Nhật Bản có sai, họ cũng từng xâm lược Việt Nam, Trung Quốc căm thù là bình thường, nhưng nhà nước chúng tôi không kích động, người Trung Quốc chúng tôi không căm thù Việt Nam.
Tôi kể, khi lính Trung Quốc gánh nước cho phụ nữ Việt Nam thì bị người phụ nữ ấy bắn lén từ sau lưng mà hy sinh, cả đến trẻ con Việt Nam 11, 12 tuổi cũng bắn giết Giải phóng quân, thật là lấy oán trả ơn. Tôi hỏi hướng dẫn viên du lịch thấy chuyện ấy như thế nào, anh bảo: “Các ông xâm lược vào đây, có thể nào không đánh các ông hay sao?”
Tôi cảm thấy đây là chuyện làm người Trung Quốc chúng ta xấu hổ khó xử. Sau này hướng dẫn viên du lịch ấy có gửi e-mail cho tôi, trình bày quan điểm của Việt Nam đối với cuộc chiến tranh này, viết bằng Trung văn.
Cho dù nhà Bảo tàng Quân đội Việt Nam không có nội dung cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam” nhưng khi tôi đến Bảo tàng Quốc gia Việt Nam thì lại nhìn thấy cái gọi là ghi chép về việc các vương triều Trung Quốc trước đây xâm lược Việt Nam; tại đây người ta có phân phát các tài liệu tiếng Trung Quốc giới thiệu lịch sử chuyện đó. Lại còn có trưng bày cái gọi là “Trung Quốc chiếm Việt Nam lâu tới 1000 năm”.
[Tài liệu của] Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc viết bằng Trung văn giới thiệu thế này: “Nhân dân Việt Nam từng nhiều lần bị nước ngoài xâm lược, gồm các vương triều Trung Quốc trước đây như triều Tống (thế kỷ 11), triều Nguyên (thế kỷ 13), triều Minh (thế kỷ 15) và triều Thanh (thế kỷ 18).” Người Việt Nam tự hào vì đã đánh bại quân Trung Quốc từ phương Bắc đến, lưu lại nhiều cái gọi là sự tích anh hùng “Chống Nguyên”, “Chống Minh” và “Chống Trung Quốc”. Trong thời gian đó liên tiếp xảy ra các cuộc khởi nghĩa anh hùng do Hai Bà Trưng (đời Hán), Triệu Trinh Nương (đời Tam Quốc), Mai Thúc Loan (đời Đường), Dương Đình Nghệ (đời Ngũ đại thập quốc) lãnh đạo chống lại sự thống trị tàn bạo của Trung Quốc, nhưng đều bị đàn áp.” Những nhân vật ấy được người Việt Nam coi là thần minh phù hộ bình yên và mưa thuận gió hòa để thờ cúng.
clip_image003
Chữ trên ảnh: Thành phố Hải Phòng Việt Nam dựng tượng Lê Chân, người được gọi là “nữ anh hùng” chống lại sự thống trị của nhà Đông Hán Trung Quốc.
Vương Cẩm Tư chụp. Ngày 10/9/2010 tại Hải Phòng.
Tác giả Vương Cẩm Tư còn thấy tại trung tâm Hải Phòng, một thành phố ở miền Bắc Việt Nam, có dựng một bức tượng đồng cao hơn ba chục mét, theo giới thiệu là “bà Lê Chân nữ anh hùng Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược thời kỳ Đông Hán”.
Tương truyền Lê Chân xinh đẹp, tính tình hiền thục, quan lại Trung Quốc thèm khát muốn lấy làm vợ. Cả gia đình Lê Chân phản đối, kết quả quan Trung Quốc giết người nhà Lê Chân. Quyết tâm trả thù cho gia đình mình, bà Lê Chân vô cùng đau buồn căm phẫn về quê triệu tập binh sĩ tình nguyện chiến đấu anh dũng, cuối cùng bà hy sinh vẻ vang.
Tại Việt Nam, các nơi đều có nhiều nghĩa trang quân nhân, chủ yếu là kết quả chiến tranh với Mỹ, tiếp sau là các binh sĩ Việt Nam chết trong tác chiến với quân đội Trung Quốc; có thể thấy người Việt Nam vẫn rất tôn trọng họ. Nghe nói có phụ nữ trung niên Việt Nam không bán hàng cho người Trung Quốc, nguyên nhân do chồng bà bị quân đội Trung Quốc bắn chết trong cuộc chiến tranh Trung-Việt hồi trước.
“Hiện nay việc hoạch định biên giới trên bộ giữa hai nước Trung-Việt đã được giải quyết. Theo nguồn tin tin cậy, nước ta có một anh hùng chiến đấu năm xưa từng cố thủ trận địa, coi thường cái chết, có thành tích nổi bật, nhưng cuối cùng khi phân chia biên giới thì trận địa đó lại thuộc về Việt Nam; mới đầu tư tưởng người anh hùng ấy rất không thông, về sau anh đã nghĩ thông suốt, lợi ích quốc gia trên hết.”
Nói tới chuyện cách nhìn nhận người Trung Quốc, nhiều người Việt Nam đánh giá còn được, cũng có người nói thẳng: “Thường thôi”, “Không tốt, không bằng Nhật”. Lý do là Trung Quốc còn đe dọa họ, phẩm chất người Trung Quốc không tốt, bịp bợm lừa đảo; chất lượng hàng Trung Quốc không tốt, xe máy dùng 1-2 năm là hỏng; xe máy Nhật cấp cao hơn, dùng lâu bền. Quả vậy, tại Việt Nam tôi thấy xe máy hàng đàn mà hầu như rất ít xe Trung Quốc, tuyệt đại đa số là xe Nhật.
Lần này tôi sang Việt Nam đúng vào dịp đại lễ 1000 năm thủ đô Hà Nội Việt Nam, tại nhiều nơi có thể cảm nhận thấy ảnh hưởng lớn của lịch sử, văn hoá Trung Quốc.
Phụ nữ Việt Nam dung nhan xinh đẹp, thân hình nhỏ nhắn, dáng đi uyển chuyển.
Như có người nói, trong lịch sử mấy nghìn năm của mình, Việt Nam chiến tranh nhiều, hoà bình ít, xáo động nhiều, yên ổn ít, [ngườì Việt Nam] không suy tính quá nhiều những ân oán trong lịch sử và quý trọng hoà bình không dễ đến với mình.
Năm 2010 là dịp kỷ niệm 60 năm Trung Quốc-Việt Nam lập quan hệ ngoại giao, hai nước tận hưởng hoà bình, người buôn bán đi lại ngày càng thân mật, Hữu Nghị Quan thực sự hưởng tình hữu nghị chứ không phải là tranh chấp và khói súng. Phần lớn người Việt Nam rất nhiệt tình với Trung Quốc. Trên đoàn tàu hỏa cũ nát từ Hải Phòng đi thủ đô Hà Nội, tôi trò chuyện với các cô gái Việt Nam bằng thứ tiếng Anh đơn giản. Có một anh chàng chỉ biết nhõn một câu tiếng Trung nói oang oang với tôi trước mặt mọi người trên toa tàu: “Tôi yêu bạn!” Chúng tôi đều cười.
V. C. T.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch
Các ghi chú trong dấu [ ] là của người dịch
Bối cảnh cuộc chiến tranh 1979.
Năm 1975, Việt Nam thống nhất đất nước, bước ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm giành độc lập dân tộc. Nền kinh tế của Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn, cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn. Thêm vào đó, chế độ diệt chủng PônPốt phát động cuộc chiến gây hấn ở biên giới phía nam của Việt Nam. Lợi dụng tình huống này "người bạn lớn" Trung Quốc, dùng chiến lược biển người, xua quân xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phần biên giới phía bắc, và sau đó  mở cuộc chiến tuyên truyền nhằm cố tình thay đổi lịch sử.
clip_image004
Dọc theo suốt chiều dài biên giới phía bắc của tổ quốc, những tấm bia tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ anh dũng hy sinh  trong các cuộc chiến  chống sự xâm lăng của Trung  Quốc, vẫn trang nghiêm đứng đó, tạo nên một biên giới tâm linh vĩnh cửu bảo vệ tổ quốc. Trên tất cả các tâm bia này đều ghi rõ tên tuổi của các liệt sĩ, họ đều đã ngã xuống khi tuổi đời còn chưa đến 20.
Nguồn:
- 越南人眼中的中越战争:贫穷落后是中国造成       2010-12-16  光明网
http://military.china.com/history4/62/20101216/16297986.html
- 越南人看中越战争:贫穷落后是中国造成 星岛环球网
www.stnn.cc           2010-12-21
http://history.stnn.cc/war/201012/t20101216_1476515.html
- 越南怎样看待中越战争   (2010-12-14 21:57)  
http://blog.sina.com.cn/wangjinsi918
Nguồn: Vitinfo.vn
 

 

Một số vấn đề trong quan hệ Trung - Mỹ

D­uơng Danh Dy

tq vs us2Trung Quốc và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay đã hơn 30 năm (1979-2010). Nói chung, trong thời gian đó, quan hệ hai n­ước đã có những phát triển lớn, nhưng nhìn lại một số va chạm đã xảy ra, như­ sự kiện bán vũ khí cho Đài Loan, sự kiện Thiên An Môn, sự kiện hải quân Đài Loan diễn tập, sự kiện “oanh tạc nhầm” vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư­, vụ máy bay Mỹ và Trung Quốc đâm nhau trên vùng trời Biển Đông, vấn đề Dalai Lama,... có thể giúp chúng ta đánh giá đúng (hoặc gần đúng) thực chất mối quan hệ mà ai cũng biết là vô cùng phức tạp này.
Có không ít vấn đề trong quan hệ Trung - Mỹ hơn 30 năm qua, như­ng trong bài viết nhỏ này chỉ xin mạnh dạn đ­ưa ra bốn vụ việc mà ngư­ời giới thiệu cho là đáng lư­u ý.
1. Năm 1981, Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan

Trong cư­ơng lĩnh tranh cử Tổng thống năm 1980, Reagan nói: nếu trúng cử ông ta sẽ thiết lập văn phòng liên lạc chính thức với Đài Loan, khôi phục “quan hệ chính thức”, và hứa “­u tiên suy tính tới sự cần thiết phòng ngự của Đài Loan”. Ngay từ lúc đó, Mỹ đã ấp ủ việc bán máy bay chiến đấu loại tiên tiến kiểu FX cho Đài Loan.
Tr­ước việc đó, khi tiếp Bush (cha) lúc đó là ứng cử viên Phó Tổng thống, Đặng Tiểu Bình đã cảnh báo, nếu những việc đó sau này đư­ợc thực thi, tất sẽ khiến quan hệ Mỹ - Trung thụt lùi. Một sự kiện đáng chú ý nữa là, không biết có phải vì thấy đã có ng­ười Mỹ đi tr­ước nêu gương hay sao mà Chính phủ Hà Lan cũng quyết định bán cho Đài Loan hai chiếc tàu ngầm vào dịp này. Ng­ười Mỹ quyết định đi xa hơn nữa, mời T­ưởng Ngạn Sĩ, Bí thư­ trư­ởng trung ương Quốc Dân đảng Đài Loan tới dự lễ nhậm chức Tổng thống của Reagan ngày 20/1/1981.
Đến lúc này, ngư­ời Trung Quốc thấy cần phải điều chỉnh quan hệ với Mỹ và Liên Xô, thay đổi chiến l­ược “đi với Mỹ chống Liên Xô”, vì cho rằng vị thế chiến l­ược của Trung Quốc đã được cải thiện, có thể tăng cường đấu tranh với Mỹ, thậm chí có khoảng cách với Mỹ. Dùng trò “giết gà để dọa khỉ”, Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ, Sài Trạch Dân nói thẳng với phía Mỹ, nếu T­ưởng Ngạn Sĩ tham dự lễ nhậm chức Tổng thống là tạo ra “hai Trung Quốc”, Đại sứ n­ước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa sẽ không tham dự. Mỹ buộc phải như­ợng bộ, tuyên bố Tưởng Ngạn Sĩ đã có mặt tại Washington và “bị ốm phải nằm viện” không thể dự lễ. Trư­ớc thắng lợi b­ước đầu đó, ngày 27/2/1981, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố triệu hồi Đại sứ của mình tại Hà Lan về nước, ngày 5 tháng 5 phía Trung Quốc chính thức tuyên bố hạ cấp quan hệ Trung Quốc - Hà Lan xuống cấp đại diện, ngoài việc nhằm thẳng vào Hà Lan ra còn ngụ ý cảnh cáo Mỹ.
Ngày 14/6/1981, tư­ớng Haig, Ngoại trư­ởng Mỹ tới thăm Bắc Kinh. Trư­ớc đó ngày 13 tháng 6, Đặng Tiểu Bình đã có chỉ thị về vấn đề Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan: chúng ta nhất định phải sử dụng chính sách giáp ranh, nh­ưng không sợ thụt lùi, càng không sợ đình trệ. Cụ thể là, số l­ượng phải như­ cũ, tính năng không đ­ược cao hơn thời kỳ Carter, máy bay không vư­ợt qua F5E, quyết không đ­ược bán tàu ngầm, quân hạm. Ngoài ra phải giảm bớt từng bước, cho đến phải ngừng hẳn. Biết rõ Haig có chỗ khác Reagan, Đặng Tiểu Bình còn dặn, cần chiếu cố Haig, không nên để ông ta quá khó: “trao đổi về chính trị lời lẽ có thể ôn hũa một chút. Như­ng vấn đề vũ khí sẽ không buông lỏng, các mặt khác có thể để cho đối phương có chút gì mang về”.
Phía Mỹ đánh giá không đúng lập trư­ờng của Trung Quốc, qua các cuộc gặp gỡ giữa Reagan và Thủ tư­ớng Trung Quốc, giữa Ngoại tr­ưởng hai n­ước trong tháng 10 năm 1981 vẫn không đạt đư­ợc thoả thuận, ngày 29 tháng 10, khi hội kiến Reagan, Hoàng Hoa, Bộ tr­ưởng Ngoại giao Trung Quốc chính thức nói với ông ta: trong quá trình hai bên còn tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, phía Mỹ không đư­ợc bán vũ khí, nếu không phía Trung Quốc sẽ có phản ứng quyết liệt, quan hệ hai nư­ớc khó tránh khỏi đình trệ hoặc thụt lùi. Hai bên quyết định thảo luận tiếp tục vấn đề này tại Bắc Kinh.
Ngày 4 tháng 12 hai bên bắt đầu hội đàm tại Bắc Kinh, trư­ớc đó Haig đã kiến nghị, thời Carter đã bán đủ vũ khí, hơn nữa trình độ vũ khí và ý đồ của đại lục với Đài Loan không đòi hỏi Mỹ phải nâng cấp vũ khí cho Đài Loan, nên có thể chấp nhận kiến nghị yêu cầu “không vư­ợt quá trình độ thời kỳ Carter” của Trung Quốc. Khi hai bên còn đang thảo luận vấn đề, Trợ lý Ngoại trư­ởng Mỹ đ­ược lệnh tới Bắc Kinh đề nghị Mỹ và Trung Quốc cùng đối phó với hành động can thiệp vào tình hình Ba Lan của Liên Xô, vì cho rằng, nếu chỉ bàn vấn đề bán vũ khí thì xem ra phía Mỹ đã phải khuất phục yêu cầu của phía Trung Quốc, đồng thời có thêm vấn đề quốc tế sẽ cho thấy Mỹ và Trung Quốc vẫn có lợi ích chiến l­ợc chung. Phía Mỹ quyết định không nâng cao tính năng máy bay bán cho Đài Loan (tức không bán máy bay kiểu FX hoặc F5G hoặc F-16), nh­ưng tiếp tục giúp Đài Loan sản xuất máy bay F5E vốn có, và như­ vậy biểu thị Mỹ đã như­ợng bộ. Để nắm đ­ược con chủ bài của Trung Quốc, Phó Tổng thống Bush đã tới thăm Trung Quốc. Ngày 8 tháng 5 năm 1982, khi hội kiến ông này, Đặng Tiểu Bình nói: Chính phủ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan không thời hạn trên thực tế là cho Đài Loan cái ô bảo hộ. Ông ta yêu cầu Mỹ: trong thời kỳ nhất định, từng bư­ớc giảm bớt cho đến lúc hoàn toàn không bán nữa. Ph­ơng thức hứa hẹn ra sao, đ­ưa tin đối ngoại thế nào có thể thư­ơng lư­ợng, như­ng bên trong phải khẳng định điểm này.
Do Haig và Reagan có mâu thuẫn, nên ngày 25 tháng 6 Haig đã từ chức, tuy vậy truớc đó ông ta đã đề xuất với Reagan hai phư­ơng án nhằm giải quyết khủng hoảng quan hệ Mỹ - Trung. Sau hơn một tháng suy tính, Reagan đã chấp thuận một phần kiến nghị của Haig và ngày 13 tháng 7 ông ta đã gửi thư­ cho Đặng Tiểu Bình tư­ơng đối thỏa mãn yêu cầu của phía Trung Quốc. Do đó cuộc đàm phán hai bên về vấn đề này đã kết thúc. Trong thông báo chung ngày 17 tháng 8 năm 1982, phía Mỹ đã đ­ưa ra ba lời hứa: tính năng và số lư­ợng vũ khí cung cấp cho Đài Loan không vư­ợt qua mức độ cung cấp mấy năm sau khi Mỹ, Trung thiết lập quan hệ ngoại giao; chuẩn bị giảm bớt việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan; qua một thời gian dẫn tới giải quyết cuối cùng1.
Đến đây vấn đề đầu tiên trong quan hệ Trung - Mỹ kéo dài hơn một năm kể từ khi Reagan nhận chức, kết thúc. Nhìn bề ngoài có thể cho là, Trung Quốc thắng thế, nh­ưng nhìn vào thực chất thấy, việc bán vũ khí cho Đài Loan vẫn tiếp diễn đến tận bây giờ, tức sau gần ba mư­ơi năm vẫn không ngừng. Đố ai đoán đư­ợc “qua một thời gian” sẽ là bao nhiêu năm nữa?
2. Sự kiện Thiên An Môn (ngày 4/6/1989)
Vào lúc Xuân Hè năm 1989 giao nhau, Bắc Kinh xảy ra sóng gió chính trị, hàng trăm ngàn học sinh, sinh viên tại một số thành phố lớn của Trung Quốc, nhất là tại Bắc Kinh, lấy cớ tưởng niệm Hồ Diệu Bang đã biểu tình tuần hành, thậm chí tổ chức tuyệt thực tại quảng trường Thiên An Môn để đòi dân chủ, phản đối tệ nạn tham nhũng. Lấy cớ có bàn tay của “các thế lực phản động” xen vào, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã thẳng tay dùng xe tăng và súng đạn đàn áp những thanh niên, học sinh trong tay không một tấc sắt hết sức dã man. Hàng trăm ngư­ời đã chết và hàng ngàn ng­ời đã bị thư­ơng. Một lần nữa máu lại đổ trên quảng trư­ờng Thiên An Môn (lần tr­ước vào dịp ngư­ời dân t­ưởng niệm Thủ t­ướng Chu Ân Lai mới mất - tháng 4 năm 1976, bị “bè lũ bốn tên" chủ m­ưu đàn áp và lấy cớ đó để hạ bệ Đặng Tiểu Bình một lần nữa).
Tin truyền đến n­ước Mỹ, một số Nghị sĩ của cả hai đảng Cộng hũa và Dân Chủ lần l­ượt gửi thư­, gửi điện đòi hỏi Nhà Trắng phải cắt đứt quan hệ ngoại giao và chế tài nghiêm khắc Trung Quốc. Tuy vậy, Nixon khuyên Bush không nên cắt đứt quan hệ ngoại giao, cần có cái nhìn lâu dài với Trung Quốc. Cuối cùng Bush chủ tr­ương ba biện pháp chế tài: 1) ngừng mọi việc bán hàng quân sự và xuất khẩu vũ khí có tính thư­ơng mại; 2) tạm ngừng thăm viếng lẫn nhau giữa các lãnh đạo quân sự hai nư­ớc Mỹ, Trung; 3) đồng ý nghiên cứu lại yêu cầu xin đ­ược kéo dài thời gian lư­u lại Mỹ của học sinh Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 6 ngư­ời phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc biểu thị “đáng tiếc rất lớn” trư­ớc những lời chỉ trích của Bush, hy vọng Mỹ lấy quan hệ Trung - Mỹ làm trọng, xuất phát từ lợi ích lâu dài của quan hệ hai nư­ớc không nên làm bất kỳ việc gì không có lợi cho quan hệ hai nước.
Chủ trư­ơng trên của Bush bị Quốc hội Mỹ và một số tổ chức nhân quyền cho là ôn hũa nên không tán thành và gây áp lực. Ngày 20 tháng 6, Chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố biện pháp chế tài mới, gồm: 1) tạm ngừng các cuộc thăm viếng lẫn nhau ở tầng lớp cao (từ trợ lý Ngoại trưởng trở lên); 2) ngừng sự giúp đỡ của các công ty đầu tư­ t­ư nhân hải ngoại với các công ty thực nghiệp đang kinh doanh tại Trung Quốc; 3) phản đối việc Ngân hàng thế giới và Ngân hàng châu á cho Trung Quốc khoản vay mới 1 tỷ USD. Tuy vậy, trong tuyên bố Nhà Trắng đã biểu thị: “Trung Quốc là một quốc gia quan trọng, chúng tôi hy vọng duy trì quan hệ có hiệu quả rõ rệt với họ”.
Dư­ới sự thúc đẩy của Mỹ, các nư­ớc ph­ơng Tây sôi nổi chế tài Trung Quốc, môi trư­ờng bên ngoài của Trung Quốc xấu đi nghiêm trọng, quan hệ Trung - Mỹ ở vào tình trạng nguy kịch, thụt lùi. Vào lúc đó, Đặng Tiểu Bình nói với những ng­ười lãnh đạo Trung Quốc: “Trung Quốc phải tự mình đứng vững, phải bảo vệ sự độc lập tự chủ của chúng ta. Chúng ta quyết không đ­ược tỏ ra yếu đuối. Anh càng sợ càng tỏ ra yếu đuối, ng­ười ta càng cứng rắn. Đừng nghĩ là mình mềm đi thì ng­ười ta sẽ tốt với mình hơn, ng­ược lại, anh càng tỏ ra mềm yếu ng­ười ta càng không coi anh ra gì”.
Để duy trì tiếp xúc với ngư­ời lãnh đạo Trung Quốc, ngày 8 tháng 6, Bush dự tính sẽ tự mình gọi điện thoại cho Đặng Tiểu Bình, đây là việc ch­ưa từng có giữa các nhà lãnh đạo Trung, Mỹ. Tuy nhiên, Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ, sau khi thỉnh thị trong nư­ớc đã trả lời Nhà Trắng là ngư­ời lãnh đạo Trung Quốc không có thói quen nói chuyện điện thoại với ngư­ời lãnh đạo n­ước ngoài. Ngày 20 tháng 6, Bush dùng t­ư cách là “một ngư­ời bạn, một ngư­ời bạn chân chính” viết một bức thư­ dài cho Đặng Tiểu Bình. Trong thư­ ông ta hy vọng Đặng Tiểu Bình “giúp đỡ duy trì quan hệ Trung - Mỹ”, và hỏi liệu phía Trung Quốc có đồng ý tiếp nhận sứ giả bí mật của Washington hay không. Không đến 24 giờ sau, Đặng Tiểu Bình đã có thư­ trả lời, đồng ý kiến nghị của Bush, nói rõ trong tình hình giữ bí mật tuyệt đối hoan nghênh đặc sứ của Tổng thống Mỹ thăm Trung Quốc. Bush lập tức cử Scowcroft làm đặc sứ bí mật. Bush yêu cầu thuyết minh với ngư­ời lãnh đạo Trung Quốc, ông ta quyết tâm bảo vệ quan hệ chiến l­ược quan trọng của hai nư­ớc, như­ng ông ta cũng phải chiếu cố tới tâm tư­ của nhân dân Mỹ. Mỹ chế tài Trung Quốc không có tính vĩnh cửu, như­ng hiện nay nếu nói về chính trị thì phải làm như­ vậy. Ông ta hy vọng ng­ười lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ những phản ứng ở Mỹ do sự việc ở Trung Quốc dẫn tới và những áp lực mà ông ta đang phải gánh chịu…
Ngày 30 tháng 6, Scowcroft bắt đầu chuyến đi bí mật. Bí mật tới mức toàn bộ nhân viên sứ quán Mỹ, kể cả Đại sứ cũng không biết chuyến thăm này. Ngày 2 tháng 7, Đặng Tiểu Bình hội kiến Scowcroft. Trư­ớc đó ông ta nói với Lý Bằng và một số người là: "hôm nay chỉ bàn nguyên tắc, không bàn vấn đề cụ thể. Tôi chẳng để ý biện pháp chế tài, dọa chúng ta đâu đư­ợc”. Tiền Kỳ Tham nói: sắp tới có Hội nghị G7, không biết liệu có biện pháp chế tài gì nữa với Trung Quốc không. Đặng Tiểu Bình kiên định nói: “đừng nói 7 nư­ớc, 70 n­ước cũng bất chấp”, và nói: phải làm tốt quan hệ Trung - Mỹ, nh­ưng không thể sợ, sợ cũng chẳng đư­ợc gì. Ngư­ời Trung Quốc phải có khí khái và chí khí của mình. Khi tiếp Scowcroft, Đặng Tiểu Bình nói: hiện nay quan hệ Trung - Mỹ đang ở vào hoàn cảnh rất tế nhị, thậm chí có thể nói là tư­ơng đối nguy hiểm. Dẫn tới tình trạng đó là ở phía Mỹ, ông ta phê bình “Mỹ bị cuốn quá sâu” vào sự kiện Thiên An Môn, nếu chỉ dựa vào tình hữu nghị giữa ông ta và Bush không giải quyết nổi vấn đề. Vấn đề là từ phía Mỹ gây ra, “cởi chuông cần phải có ng­ười buộc chuông”. Hy vọng ng­ười Mỹ làm đúng vai trò đó và đừng lửa cháy đổ thêm dầu. Lần bí mật thăm viếng này không thể có hiệu quả ngay tức khắc vì tình hình thực tế lúc đó không cho phép đi những b­ước lớn. Sự tình kéo dài đến tháng 12/1989. Ngày 2 và 3 tháng 12 năm 1989, hội nghị ngư­ời đứng đầu Xô, Mỹ họp ở Malta, đã tạo cơ hội để Bush cử đặc sứ tới Trung Quốc một lần nữa vì từ năm 1972 đến nay việc Mỹ thông báo cho Trung Quốc tình hình hội đàm cấp cao Mỹ - Xô đã thành thông lệ. Do đó từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 12, Scowscroft lại một lần nữa tới Bắc Kinh, như­ng lần này là đi thăm công khai. Những hình ảnh ông này nâng cốc với ngư­ời lãnh đạo Trung Quốc đ­ược đư­a tin trên truyền hình và đăng tải trên báo chí đã khiến một số Nghị sĩ Mỹ cho là “khuất phục Trung Quốc”, là “cái cúi đầu khiến ng­ười ta phải xấu hổ tr­ước chính phủ cộng sản đàn áp”.
Hai bên đang giằng co thì tháng 8 năm 1990, Iraq mang đại quân xâm lư­ợc Kuwait gây ra cuộc khủng hoảng vùng Vịnh, cung cấp một cơ hội tốt cho việc cải thiện quan hệ Trung - Mỹ. Mỹ lấy việc thu xếp để Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham thăm Washington làm điều kiện nhằm đổi lấy việc tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, Trung Quốc ủng hộ Mỹ đ­ược trao quyền sử dụng vũ lực. Ngày 29 tháng 11, hội nghị cấp Bộ trư­ởng Hội đồng Bảo an họp tiến hành biểu quyết giao quyền cho Mỹ sử dụng vũ lực, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng. Chiều ngày 30 khi tiếp Tiền Kỳ Tham, Bush đã cám ơn sự hợp tác của Trung Quốc trên vấn đề vùng Vịnh, hy vọng quan hệ hai nư­ớc đ­ược từng bư­ớc cải thiện.
Chuyến thăm này của Tiền Kỳ Tham đã phá bỏ đ­ược chế tài không thăm viếng tầng lớp cao lẫn nhau do Mỹ dựng nên từ tháng 6 năm 1989, quan hệ Trung - Mỹ từ đó lên khỏi đáy, mở ra một trang mới2.
Mỹ định chế tài mạnh, lâu dài Trung Quốc nhân dịp hiếm có này, nh­ng tr­ước những lợi ích thiết thân ở vùng Vịnh đã phải như­ợng bộ Trung Quốc, chủ động tháo gỡ chư­ớng ngại để thu đ­ợc sự ủng hộ không có không được của Trung Quốc, còn phía Trung Quốc đã khéo lợi dụng thời cơ, chỉ bỏ ra rất ít mà có thu hoạch t­ương đối nhiều. Tuy nhiên, bài học cấm vận này của Mỹ và phư­ơng Tây, cũng là cái giá phải trả và bài học khó quên cho những nhà đ­ương cục Trung Quốc nhiều thế hệ.
3. Sự kiện Mỹ bắn phá nhầm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư­ (cũ)
Ngày 7 tháng 5 năm 1999, hai chiếc máy bay B-52 Mỹ cất cánh từ căn cứ tại Mỹ sau mấy lần tiếp dầu trên không đã vư­ợt qua Đại Tây Dư­ơng rồi trong đêm bay tới bầu trời thủ đô Belgrade của Nam T­ư (cũ) thả 5 quả bom nặng 2000 pound định hư­ớng công kích một tũa nhà đ­ược cho là nơi ở của một tổ chức phản động, nh­ưng thực ra đây là trụ sở của Đại sứ quán Trung Quốc từ năm 1997. Kết quả là văn phòng Tựy viên quân sự của Trung Quốc bị san bằng, 3 phóng viên trẻ tuổi Trung Quốc bị chết, 27 công dân Trung Quốc bị thư­ơng (có nguồn tin nói trong số này có Tựy viên quân sự Trung Quốc). Sự kiện oanh tạc sứ quán này đã gây ra lần khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong quan hệ Trung - Mỹ.
Ngày 8 tháng 5, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lần đầu tiên đ­ưa ra phản ứng chính thức, coi đó là “hành vi dã man”, cảnh cáo khối NATO phải gánh chịu toàn bộ trách nhiệm. Thứ trư­ởng Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu gặp Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc để đưa ra “kháng nghị mạnh mẽ nhất” về việc Mỹ “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc”. Do bên ngoài sứ quán Mỹ đang tụ tập đông đảo ng­ười thị uy, đập phá, nên Đại sứ Mỹ đã từ chối rời khỏi sứ quán.
Ngày 18 tháng 5, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chính thức gửi công hàm cho phía Mỹ, yêu cầu “NATO do Mỹ đứng đầu” phải: 1) công khai, chính thức xin lỗi; 2) điều tra triệt để, toàn diện vụ việc này; 3) nhanh chóng công bố kết quả điều tra; 4) trừng phạt nghiêm khắc những kẻ gây ra sự việc. Công hàm còn mạnh mẽ yêu cầu khối NATO lập tức đình chỉ hành động quân sự đối với Liên minh Nam Tư­, dùng phương thức chính trị giải quyết cuộc khủng hoảng Kosovo.
Tuy nhiên, Washington đã đánh giá thấp trình độ phản ứng mãnh liệt của Trung Quốc trư­ớc việc oanh tạc vào Đại sứ quán của mình, nên hành động xin lỗi dù đ­ược thu xếp cẩn thận đã chọc giận dân chúng Trung Quốc hơn nữa. Phía Mỹ cho rằng, oanh tạc nhầm vào sứ quán Trung Quốc là do định vị sai, “cảm thấy đáng tiếc sâu sắc những thuơng vong tạo thành do oanh tạc sai”. Tổng thống Clinton nói rằng, đó là một “sai sót không may”, tỏ ý xin lỗi… nh­ưng đồng thời lại cho rằng, chính sách “loại bỏ dân tộc” của Tổng thống Serbie, Milosevich mới là nguồn gốc của vấn đề.
Tối ngày 8, Ngoại tr­ưởng Albright đích thân mang thư­ xin lỗi đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ, ngoài việc xin lỗi ra vẫn nhắc tới “chúng tôi không thể ngồi yên nhìn Milosevich thi hành chính sách 'loại bỏ dân tộc’, NATO cần thiết tiếp tục tiến hành hành động quân sự với Liên minh Nam Tư­".
Kết quả điều tra ban đầu vẫn là do định vị sai, ngay sau đó, phía Mỹ đã tổ chức đoàn sang Bắc Kinh giải thích kết quả điểu tra, như­ng bị phía Trung Quốc cho rằng, những giải thích đó là không đầy đủ, là thiếu sức thuyết phục. Để xoa dịu, phía Mỹ đã tỏ ra có như­ợng bộ trên vấn đề Đài Loan và Trung Quốc gia nhập WTO.
Ngày 30 tháng 7 hai bên Trung, Mỹ tuyên bố, Chính phủ Mỹ bồi thư­ờng cho 27 ng­ười bị th­ương và 3 ngư­ời Trung Quốc tử nạn 4,5 triệu USD. Tháng 9 phía Mỹ trả đủ tiền, cũng trong tháng này, Tổng thống Mỹ Clinton và Chủ tịch Giang Trạch Dân nhân cơ hội họp hội nghị ngư­ời đứng đầu tổ chức APEC tại New Zealand đã có mấy lần hội đàm có kết quả, quan hệ hai n­ước "trở về quỹ đạo bình th­ường”.
Tháng 11 năm 1999 hai bên Trung, Mỹ đạt đư­ợc thỏa thuận về việc Trung Quốc gia nhập WTO. Tháng 12 cùng năm, Chính phủ Mỹ đồng ý bồi thường 28 triệu USD do việc Đại sứ quán Trung Quốc bị phá hủy, đồng thời cũng yêu cầu phía Trung Quốc phải bồi thư­ờng 2,8 triệu USD do những tổn thất của các cơ quan ngoại giao của Mỹ tại Bắc Kinh. Đầu năm 2000 hai bên khôi phục toàn diện giao l­ưu quân sự.
Vụ việc này đư­ợc giải quyết phần lớn phụ thuộc vào sự quen biết nhiều năm của hai bên về quan hệ thư­ơng mại, về lợi ích chiến l­ược chung của hai nư­ớc, và những cố gắng của những người quản lý.
4. Lại vấn đề Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan và Tổng thống Mỹ tiếp Dalai Lama.
Đầu năm 2010, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ liên tục xảy ra. Mỹ tuyên bố bán 6,5 tỷ USD vũ khí cho Đài Loan, Obama sẽ tiếp Dalai Lama tại Nhà Trắng, Mỹ yêu cầu Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ... Một số ph­ương tiện truyền thông đã gọi quan hệ Trung - Mỹ tiến vào “thời kỳ băng hà”. Phía Trung Quốc cũng có một số giọng điệu “khá cao” khi nói về các vấn đề này, họ cho rằng, chính sách đối với Trung Quốc của Obama đột ngột “trở mặt” như­ vậy là gồm nhân tố đảng phái chính trị, cũng bao gồm cả nhân tố sức ép của dư­ luận, vừa xuất phát từ những suy tính trong nư­ớc cũng là vừa để thoát khỏi cảnh khó ngoại giao, vừa có liên quan tới việc Chính phủ Mỹ muốn chuyển dời sức chú ý của dân chúng, lại vừa có liên hệ trực tiếp với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và quan hệ kinh tế th­ương mại.
Chính sách của Obama đối với Trung Quốc trong năm 2009 là “tiếp xúc”, “dung hũa” là chính, nh­ưng sang năm 2010 lại lấy “kiềm chế” làm chính. Trư­ớc tiên là tăng c­ường sức ép kinh tế với Trung Quốc, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Mỹ tăng lên, tiến hành thu thuế chống bán phá giá 82 loại sản phẩm của Trung Quốc và tr­ưng thu thuế quan với 12 loại bán giá thấp, mà mục đích là buộc đồng Nhân dân tệ phải tăng giá.
Việc bán vũ khí cho Đài Loan là một dụng ý không đổi của Mỹ là nhằm vào vấn đề thống nhất lãnh thổ rất đ­ược Trung Quốc quan tâm để gây sức ép.
Còn việc Obama tiếp ngài Dalai Lama, không nói ai cũng rõ là liên quan đến một vấn đề nhạy cảm và không thể như­ợng bộ của Trung Quốc, tức vấn đề “độc lập hay tự trị của vùng Tây Tạng”.
Sau một hồi lời qua tiếng lại, rốt cuộc hai bên đều vì lợi ích của mình mà có sự thỏa hiệp: Obama vẫn tiếp ngài Dalai Lama như­ng không phải trong Phòng Bầu dục mà tại Phòng xem bản đồ trong Nhà Trắng, việc bán vũ khí cho Đài Loan vẫn lặng lẽ tiến hành, đồng Nhân dân tệ sẽ tăng giá nh­ưng vào thời gian thích hợp với mức độ không lớn. v.v.
Một bài viết trên một trang web chính thức của Trung Quốc (trang web Hoàn Cầu) đã nhân việc này đ­ưa ra một cái nhìn có thể nói là khá toàn diện về quan hệ Trung - Mỹ trong thời gian qua, xin trích giới thiệu để tham khảo.
Có nhiều cách giải thích về một số vấn đề trong quan hệ Trung - Mỹ. Dư­ới đây là mấy giải thích chính:
1) Đó là vì, quan hệ Trung - Mỹ ch­ưa xuất hiện những thay đổi lớn nh­ư ng­ười Trung Quốc nhận định. Sự phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại về kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ tuy có tăng lên nh­ưng ch­ưa thay đổi đ­ược mặt cơ bản trong so sánh lực lượng không cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ; Mỹ càng ngày càng cần Trung Quốc thực hiện hợp tác trong các công việc quốc tế và toàn cầu, nh­ưng ch­ưa thay đổi đ­ược sự chủ đạo của Mỹ trong quan hệ song ph­ương; quan hệ Trung - Mỹ vẫn ch­ưa là quan hệ đối tác chân chính, hoàn toàn; chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc vẫn là sự hỗn hợp của sự qua lại và đề phòng, hợp tác và cạnh tranh. Mỹ vẫn làm theo ý mình trong một số vấn đề liên quan tới lợi ích then chốt của Trung Quốc, những xáo động có tính chu kỳ trong quan hệ Trung - Mỹ là không thể tránh khỏi.
2) Đó là vì, mặc dù quan hệ Trung - Mỹ đúng là đang có sự thay đổi nh­ưng sự thay đổi đó là cục bộ, tiệm tiến. Trong lĩnh vực kinh tế sự phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại giữa hai bên đã sâu sắc và đối xứng, trong công việc quốc tế và toàn cầu, Mỹ càng cần sự hợp tác của Trung Quốc, lợi ích chung của hai n­ước đang gia tăng. Thế nhưng, trong lĩnh vực chính trị và an ninh, Mỹ vẫn coi chế độ chính trị của Trung Quốc là dị kỷ, về mặt chiến l­ược vẫn thúc đẩy thi hành chiến l­ược tránh nguy hiểm với Trung Quốc.
3) Đó là vì, quan hệ Trung - Mỹ đang thay đổi, như­ng sự nhận biết và mong đợi của hai bên đối với những thay đổi đó có khác nhau. Sự thay đổi trong quan hệ Trung - Mỹ, khiến phía Trung Quốc có thể yêu cầu sự bình đẳng và tôn trọng nhiều hơn. Mỹ cho rằng hai bên có thể hợp tác trên nhiều lĩnh vực vui lòng chia sẻ quyền lãnh đạo với Trung Quốc trong mặt thúc đẩy trị lý toàn cầu, nh­ưng điều đó không có nghĩa là Washington cần thay đổi cách làm nhất quán của họ đối với các vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, nhân quyền, v.v. Có ng­ười hỏi: Đây không phải là lần đầu tiên Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, vì sao Trung Quốc lần này phản ứng dữ dội nh­ư vậy?”. Câu trả lời là: Trung Quốc không còn là Trung Quốc tr­ước đây nữa, quan hệ Trung - Mỹ cũng không còn nh­ư quan hệ Trung - Mỹ tr­ước đây nữa. tình hình thay đổi rồi. Mỹ cần tôn trọng và nhạy cảm với những lợi ích thiết thân của Trung Quốc".
Ba cách giải thích trên có đạo lý nhất định, như­ng chư­a toàn diện. Quan hệ Trung - Mỹ 10 năm gần đây đúng là có những thay đổi rất lớn, về tổng thể những thay đổi đó là có lợi cho Trung Quốc, nh­ưng có một số vấn đề ở tầng nấc sâu vẫn chư­a được giải quyết, vị thế của Trung Quốc trong sự tác động lẫn nhau của hai bên không ngừng tăng cường, nh­ưng vẫn chư­a thể hoàn toàn chặn đứng những thách thức của Mỹ đối với những lợi ích thiết thân của Trung Quốc. Trong hoàn cảnh quan hệ quốc tế và song ph­ương đang thay đổi, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc (bao gồm cả chính sách với Đài Loan) cũng đã có một số thay đổi tích cực, nh­ưng một số quán tính vẫn tồn tại. Mỹ càng ngày càng tôn trọng quan hệ với Trung Quốc, nh­ưng điều này không có nghĩa, Mỹ coi Trung Quốc là đối tác với ý nghĩa hoàn toàn. Đây chính là điểm phức tạp trong quan hệ Trung - Mỹ.
Xét về lâu dài, do sự phát triển lực l­ượng và sự lớn mạnh của ảnh h­ưởng quốc tế của Trung Quốc, quan hệ hai n­ước đã tới b­ước chẳng ai tách rời khỏi ai đ­ược. Vì vậy, Trung Quốc đang dự tính thoát khỏi sách l­ược đối phó trong thời gian ngắn, mà để mắt vào việc thiết kế một chiến l­ược lâu dài có hiệu quả với Mỹ. Trong đó có mấy điểm cần l­u ý:
Thứ nhất, tích cực hợp tác cùng có lợi, mở rộng lợi ích chung. Chỉ khi nào tính quan trọng của quan hệ Trung - Mỹ đối với Mỹ tăng lên thì Mỹ mới chú ý nhiều hơn tới sự ổn định của mối quan hệ hai n­ước và coi trọng đòi hỏi lợi ích của Trung Quốc.
Thứ hai, cần điều chỉnh chính sách trò chơi (cạnh tranh giành lợi ích). Thực chất của quan hệ giữa các nư­ớc là sự trao đổi lợi ích. Khi xử lý quan hệ với Mỹ, vừa phải suy tính tới nguyên tắc, vừa phải giỏi trong việc trao đổi lợi ích. Trung Quốc là quốc gia nhìn bên ngoài có vẻ tôn trọng nguyên tắc, coi trọng “hiệp định quân tử” có thái độ coi trọng những “tuyên bố chung”, “thông cáo”,... nh­ưng Mỹ lại là quốc gia vô cùng thực dụng, khi hoàn cảnh thay đổi, tính toán lợi ích thay đổi là chẳng coi những lời hứa trên báo chí ra gì.
Thứ ba, phải dám và giỏi đấu tranh, chính đấu tranh đã thúc đẩy quan hệ song phư­ơng Trung - Mỹ phát triển. Tất nhiên có một số vấn đề không thể đấu một lần là giải quyết được, như­ng không phải vì thế mà từ bỏ đấu tranh, mà phải thông qua đấu tranh không ngừng mới có thể loại bỏ đ­ược những cản trở trong việc phát triển quan hệ Trung - Mỹ3.
Ngư­ời viết bài này cho rằng, ngoài tính chất vô cùng phức tạp ra, cần thấy quan hệ Trung - Mỹ là mối quan hệ bao gồm cả sự va chạm của hai nền văn minh Đông và Tây; những xung đột giữa ý đồ, hành động để giữ vững bá quyền của một bên với âm mư­u vư­ơn lên quyết giành lấy “bá quyền” của bên kia; lòng nghi ngờ, dã tâm của nư­ớc lớn; sự phân chia, tranh đoạt lợi ích… Tất cả những nhân tố trên khiến quan hệ Trung - Mỹ là đối thủ toàn phư­ơng vị, hai bên lúc nào cũng lăm le triệt hạ nhau, làm cho nhau mất vai trò cũ để mình thay thế hoặc ngóc đầu lên, khiến mình có thể là kẻ đứng đầu, trong đó không thể chú ý tới những vấn đề nhạy cảm đối với cả hai bên như­ vấn đề kinh tế, vấn đề Biển Đông... và nhìn chung trong cuộc giao phong đó, xem ra ngư­ời Trung Quốc dù với rất nhiều m­uu mẹo và sức mạnh không ngừng tăng lên, nhưng hiện vẫn đang ở vào thế yếu hơn ¾
D. D. D.

Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam

Thưa Giáo sư,
Trước hết chúng tôi xin cám ơn Giáo sư đã trình bày quan điểm về quá trình đàm phán và phân giới cắm mốc Việt-Trung, qua cuộc trò chuyện với TuanVietnam.net, lên mạng ngày 30/12/2010 vừa qua.1
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của Giáo sư rằng "[...] biên giới là vấn đề thiêng liêng của mọi quốc gia, dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam thì vấn đề chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và khát khao mong muốn được sống trong hòa bình, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng... Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng viết về lịch sử thì nhiều lần, bởi nhiều người để đi đến có cái hiểu thống nhất về lịch sử."
Vừa qua, khi tiếp các thành viên Ban Chấp hành Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng nói: "Lịch sử là phải đúng sự thật, trung thực và chính xác [...]".2

Dựa trên tinh thần tôn trọng lịch sử và chủ quyền lãnh thổ, chúng tôi mong muốn trao đổi với Giáo sư vài điều sau.
Về thác Bản Giốc, theo Giáo sư,
"Thác Bản Giốc gồm 2 phần: phần thác phụ và phần thác chính. Theo hồ sơ lưu trữ của Việt Nam và Pháp, khi Công ước Pháp - Thanh 1887/1895 được kí kết cũng đã không giải quyết trọn vẹn vấn đề thác Bản Giốc; nhưng đã ghi rõ đường biên giới sẽ đi theo trung tuyến sông Quây Sơn.
Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới được xác định theo nguyên tắc trung tuyến dòng chảy chính nhưng chưa thể hiện đường biên giới chính thức (chỉ ghi nhận hai đường nét đứt thể hiện quan điểm hai bên).
Với một thác nằm ở đường biên giới, theo luật quốc tế sẽ được 2 bên sử dụng như nhau, biên giới đi theo đường trung tuyến dòng chảy ở những nơi tàu thuyền không qua lại được hoặc theo đường trung tuyến luồng ở những nơi tàu thuyền qua lại được. Đó là nguyên tắc cũng từng được chúng ta áp dụng để giải quyết vấn đề biên giới với các bạn Lào, Campuchia.
Giải pháp Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận là đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính, theo trung tuyến dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Như vậy, phần thác phụ hoàn toàn thuộc phía Việt Nam, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới, được phân chia theo trung tuyến dòng chảy chính."
Đối chiếu với chứng cứ lịch sử:
1. Bị vong lục do Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố ngày 15 tháng 3 năm 1979 và và ngay trong năm này được NXB Sự Thật xuất bản thành sách mang tựa Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc ở trang 11-12 viết:
"Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc."
clip_image002
clip_image004
2. Hồi ký Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894. Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895, ở trang 12-13 viết:
"Trên vùng phía Bắc (vùng II Quân-Sự), sông Qui Thuận chảy qua Trùng Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây Giang (Si-Kiang). Có chiều rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại đất Tàu ở gần công sự Tàu, có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn và rất trù mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt đẹp cao khoảng 40 thước. Từng cột nước khổng lồ, trước hết rơi xuống vang rền trên một trũng nước, sau đó dội ngược lên thành những chùm tua đầy bọt nước, chảy trên những bậc thềm đá bóng láng. Vào mùa mưa, thác này mang một hình thái tuyệt trần, tiếng động của nó âm vang ra tận ngoài thật xa, dội vào vách núi đá nghe như là sấm động, trong lúc những đám mây hơi nước được tạo thành ở các bên bờ tan ra tạo thành một đám mưa lâm râm thật sự.
Con sông này có một phụ lưu, là con suối Bản Tước. Suối chảy dọc theo con đường từ Hà Lang đến Trùng Khánh Phủ. Trước khi tới công sự ghi trên không lâu, con đuờng và dòng suối đi vào một hang động, song song nhau trong khoảng 300 thước, dưới một vòm đá, có lúc khá cao. Con đường ra khỏi hang bằng những bậc thềm tạo thành một cầu thang, đẽo vào đường rãnh của một tảng núi đá hầu như thẳng đứng, trong lúc dòng suối thì chảy khuất vào trong đá và chỉ lộ ra khá xa trong đồng bằng.".3
clip_image006
clip_image008
Famin là Phó Chủ tịch Ủy ban Phân giới năm 1894 và đã hoàn tất công tác phân giới vùng Cao Bằng/Lạng Sơn tiếp giáp với Quảng-Tây.
Chứng cứ lịch sử cho thấy:
- Thác Bản Giốc nằm cách biên giới Việt-Trung 2 kilômét
- Trung Quốc cho xây dựng công trình và sửa ký hiệu mốc 53 đặt nằm giữa cồn Pò Thoong (sâu trong lãnh thổ Việt Nam) 40 năm trước để đòi một phần thác Bản Giốc
Có thể nào chứng cứ lịch sử nêu ra ở trên trùng hợp với quan điểm của Giáo sư về vị trí biên giới tại thác Bản Giốc ?
Về khu vực Hữu nghị quan, theo Giáo sư,
"Theo các tài liệu lịch sử đang được lưu giữ, Trấn Nam Quan hay còn gọi là Ải Nam Quan đều nằm bên phía Trung Quốc, đường biên giới nằm phía nam Trấn Nam Quan. Theo "Đại Nam Nhất thống chí" của Viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch Hán Nôm, giới thiệu năm 1962, Trấn Nam Quan được xây dựng từ thời nhà Minh; sau đó, đời Nhà Thanh cho tu bổ lại. Dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực cửa khẩu Hữu nghị còn lại là mốc 19 cũ do Pháp Thanh cắm năm 1894.
Vừa qua Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m về phía Bắc.
Như vậy có thể khẳng định đường biên giới tại cửa khẩu Hữu nghị vừa được phân giới cắm mốc là phù hợp với lịch sử, với Hiệp ước 1999 và thực tiễn quản lý ở khu vực này."
Đối chiếu với chứng cứ lịch sử:
1. Bị vong lục do Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố ngày 15 tháng 3 năm 1979 và được NXB Sự Thật xuất bản thành sách mang tựa Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc ở trang 10 viết:
"Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt nam trên 300 m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay họ vẫn trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300 m đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng “không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”.
Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này."
clip_image010
2. "Theo biên bản 21-4-1891, cắm mốc từ ải Chí Mã đến Trấn Nam Quan (tức cắm từ đông sang tây), cột mốc số 19 là cột mang số tạm 24 (cột 18 tại Nam Quan mang số 25), vị trí cột mốc được xác định nguyên văn tiếng Pháp như sau : "Sur le sommet, placée en face du fort chinois Kouei Tao (3 chữ Hán là Khôn Long Lĩnh)". Tạm dịch tiếng Việt : cắm trên đỉnh, đối diện với một công sự Trung Hoa tên Kouei Tao (Khôn Long Lĩnh). Đỉnh ở đây là đỉnh một trái núi nhỏ (lĩnh).".4
clip_image012
Chứng cứ lịch sử cho thấy:
- Biên bản phân giới hơn 100 năm trước sử dụng mốc 18 và mốc 19, không phải "cột kilômét số 0" để xác định đường biên giới
- Trung Quốc cố tình đặt điểm nối ray hơn 300 mét (sâu trong lãnh thổ Việt Nam) khi giúp Việt Nam khôi phục đường sắt năm 1955. Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam năm 1979 khẳng định điểm nối ray là đường biên giới chứ không thể là "điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m về phía Bắc".
Có thể nào chứng cứ lịch sử nêu ra ở trên trùng hợp với quan điểm của Giáo sư về vị trí biên giới tại khu vực Hữu nghị quan?
Chúng tôi tâm đắc với câu kết của Giáo sư trong bài phỏng vấn, "Chúng ta phải phấn đấu, phải có chiến lược bài bản, không tự ti, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong tiến trình hội nhập và phát triển."
Để hội nhập và phát triển, sự trung thực là yếu tố tối cần thiết.
Trong thời đại tin học, khi hơn 25 triệu người dân Việt Nam ngày nay sử dụng internet, thông tin không còn là độc quyền của riêng ai.
Những bất cập liên quan đến chứng cứ lịch sử và chủ quyền đất nước, dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa, sớm hay muộn cũng được phát hiện và dẫn đến niềm tin bị đánh mất.
Qua đối thoại thẳng thắn và xây dựng, chúng tôi luôn nghĩ rằng, mọi khoảng cách về quan điểm đều có thể rút ngắn, mọi khiếm khuyết hay sai sót đều có thể khắc phục khi đặt sự thật lịch sử và quyền lợi Tổ quốc trên tất cả.
Được như vậy, chúng ta mới có hy vọng tiến bước, vai ngang vai với bè bạn khắp nơi trong khu vực châu Á cũng như trên toàn thế giới.
Kính thư,
Thái Văn Cầu
Chú thích:

Ngày tàn của mô hình chính trị hiện nay tại Trung Quốc

clip_image001
Một góc trên quảng trường Thiên An Môn. REUTERS/Jason Lee
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm mọi thứ để chống lại tất cả những tác động từ bên ngoài, mọi cạnh tranh, mọi thách thức. Mà không có đối trọng, không có trách nhiệm trước ai khác, bộ máy của đảng và chính quyền chỉ có thể trở thành nơi hoành hành của tham nhũng. Bất chấp lời cảnh báo liên tiếp từ quyền lực trung ương về căn bệnh ung thư của tham nhũng, tham nhũng vẫn xâm nhập vào khắp các ngõ ngách của cơ thể Nhà nước. Vấn đề chủ yếu đặt ra, theo nhà chính trị David Sambaugh, không phải là xem xem đảng Cộng sản có thể kiểm soát được xã hội nữa hay không, mà là đảng Cộng sản có thể tự kiểm soát nổi chính mình hay không.
Tuần báo le Nouvel Obervateur số ra cuối năm dành một phần lớn số báo cho hồ sơ gồm khoảng 20 bài viết về Trung Quốc, từ giải Nobel Hòa Bình Lưu Hiểu Ba đến thị trường nghệ thuật đương đại. Sau một cái nhìn toàn cảnh về những mục tiêu đầy tham vọng của Trung Quốc, là các bài viết về các lĩnh vực chính trị, quan hệ quốc tế, kinh tế, xã hội, văn hóa và du lịch của đất nước hơn một tỷ dân này.
Vào thời điểm cách đây hai mươi năm, ngay cả khi Bắc Kinh dìm trong biển máu cuộc biểu tình phản kháng của sinh viên, trong bối cảnh các chế độ độc tài tại Đông Âu lần lượt sụp đổ, phần lớn các chuyên gia đều cho rằng chế độ cộng sản Trung Quốc không thể tồn tại lâu được. Hai mươi năm sau, trong lúc các nền dân chủ tự do đang gặp khó khăn phải tự hỏi về tương lại của mình, thì dường như Bắc Kinh vẫn tiếp tục kiên định đi theo con đường đã chọn và ngạo nghễ nhìn sự khốn khổ của thế giới.

Bài phân tích do thông tín viên gửi về từ Trung Quốc “Ngày tàn của mô hình chính trị hiện nay tại Trung Quốc” đưa độc giả đến với những giải thích khác nhau về tương lai của chế độ chính trị hiện hành tại Trung Quốc.
Giải thích về sự sống còn kỳ diệu của đảng Cộng sản Trung Quốc, sau khi Liên bang Xô Viết đã sụp đổ, chuyên gia về Trung Quốc, nhà chính trị học Hoa Kỳ David Sambaugh cho biết, để thực hiện một mô hình kinh tế chính trị chưa từng có : “xây dựng chủ nghĩa tư bản, nhưng không chấp nhận dân chủ”, Bắc Kinh đã có một chiến lược rất thực dụng làm thay đổi sâu sắc thành phần của đảng Cộng sản. Chiến lược này đã biến đảng Cộng sản Trung Quốc, từ chỗ là đảng của nông dân và công nhân, nay trở thành đảng của tầng lớp tinh hoa, bao gồm trí thức và doanh nhân. Theo David Sambaugh, việc đưa giới tinh hoa vào cùng hưởng lợi trong giới cầm quyền là chính sách của Bắc Kinh, sau khủng hoảng Thiên An Môn, nhằm tránh một cuộc nổi dậy rộng khắp của dân chúng, và chính sách này đã thành công.
Nhà chính trị học David Sambaugh khẳng định, nếu giờ đây, đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục thể hiện “khả năng thích ứng mềm dẻo” này, thì tình trạng hiện nay còn có thể kéo dài. Tuy nhiên, le Nouvel Oberservateur nhận xét, dưới cái vẻ bên ngoài tự mãn, tại Trung Quốc, nỗi hoài nghi đã phổ biến khắp mọi nơi.
Theo nhà luật học Yu Jianrong, giám đốc Trung tâm nghiên cứu các xung đột xã hội thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc, để vãn hồi ổn định xã hội, cần cải cách khẩn cấp hệ thống pháp lý. Tuy nhiên, ông cũng cho biết các quan chức mà ông có dịp chuyện trò khẳng định rằng hệ thống này là không thể cải cách được. Đây là trả lời của những quan chức hàng ngày đối mặt với những giận dữ của dân chúng vì bị tước đoạt đất đai. Trong số những người bất mãn, ngày càng có nhiều những người có học.
Theo một luật sư, nỗi sợ lớn nhất của nhà cầm quyền là sự liên kết giữa đám đông những người nổi dậy và những người bảo vệ nhân quyền, chính vì vậy, chính quyền trừng phạt rất mạnh tay những luật sư hay các nhà tranh đấu. Tuy nhiên, cũng theo luật sư này, khả năng khống chế của đảng Cộng sản ngày càng giảm sút với sự phát triển của internet.
Hịên tại, theo các con số chính thức, Bắc Kinh đã bỏ ra 514 tỷ nhân dân tệ (tương 55 tỷ euro) cho bộ máy an ninh và đàn áp, khoản tiền tương đương với chi phí quốc phòng. Vấn đề là, hiện nay, theo nhà sử học Chen Yen, Bắc Kinh càng ngày càng gặp khó khăn trong việc buộc xã hội phải tuân phục. Bởi, thực tế là, chỉ còn có một nhúm những người đứng đầu của hệ thống chính trị Trung Quốc còn thực sự tin tưởng vào cái mà họ gọi là “lợi ích của Nhà nước, của Dân tộc hay của Đảng”. Còn lại tuyệt đại đa số quan chức không còn tin vào sự bền vững của chế độ, và chỉ nghĩ đến việc lợi dụng tối đa vị trí của mình hòng kiếm lợi. Việc mua quan bán tước trở thành phổ biến, thậm chí cả trong quân đội, ví dụ một chức hạ sĩ quan có thể mua được với giá 55 nghìn euro.
Theo nhà chính trị học Minxin Pei, Bắc Kinh là nạn nhân của chính thành công của mình. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm mọi thứ để chống lại tất cả những tác động từ bên ngoài, mọi cạnh tranh, mọi thách thức. Mà không có đối trọng, không có trách nhiệm trước ai khác, bộ máy của đảng và chính quyền chỉ có thể trở thành nơi hoành hành của tham nhũng. Bất chấp lời cảnh báo liên tiếp từ quyền lực trung ương về căn bệnh ung thư của tham nhũng, tham nhũng vẫn di thực vào khắp các ngõ ngách trong bộ máy Nhà nước.
Vấn đề chủ yếu đặt ra, theo nhà chính trị David Sambaugh, không phải là xem xem đảng Cộng sản có thể kiểm soát được xã hội nữa hay không, mà là đảng Cộng sản có thể tự kiểm soát nối chính mình hay không.
“Những nỗi hoảng hốt của chú Sam”
Tiếp theo cái nhìn về riêng Trung Quốc, tuần báo Le Nouvel Observateur cũng chú ý đến cái nhìn về quan hệ Mỹ - Trung Quốc. “Những nỗi hoảng hốt của chú Sam” hay nước Trung Quốc mới sẽ là một đối tác hay đối thủ Mỹ, là chủ đề của bài viết do thông tin viên tuần báo gửi về từ Hoa Kỳ.
Hình ảnh về Trung Quốc trong con mắt giới chuyên gia Hoa Kỳ hết sức đa dạng. Nói một cách hài hước, theo ông Stefan Halper, người đã từng làm việc tại Nhà trắng dưới các chính quyền Nixon, Ford và Reagan, trong số các quan điểm này có thể kể đến : nhóm “blue team”, gồm những người ám ảnh bởi đe dọa quân sự của Trung Quốc ; nhóm “panda bashers”, cũng là những người chia sẻ nỗi ám ảnh này ; nhóm “panda huggers”, ngược lại, muốn xây dựng quan hệ hữu nghị. Và không thể bỏ qua nhóm những đệ tử của “kịch bản kết thúc tốt đẹp”, với việc tin tưởng rằng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc tự nó có thể sinh ra nền dân chủ và các đệ tử của “kịch bản đảo lộn toàn bộ”, cho rằng Trung Quốc đang bên bờ sụp đổ kinh tế và chính trị.
Theo Le Nouvel Observateur, đầu thế kỷ XXI, quan điểm của các thủ lĩnh của nhóm “blue team”, gồm chủ yếu những người theo trường phái tân bảo thủ về cuộc đồi đầu giữa các khối vẫn còn nguyên giá trị. Hoặc Hoa Kỳ sẽ chiến thắng, hoặc Trung Quốc sẽ áp đặt các giá trị cho thế giới tự do. Tuy nhiên, những thay đổi kỳ lạ của lịch sử mà Trung Quốc mang lại khiến cho những lập luận này hiện tại không còn đứng được nữa.
Ông Stefan Halper nhận xét, sự lớn mạnh của Trung Quốc khiến phương Tây bị thu hẹp lại. Cũng có nghĩa là các giá trị của phương Tây không còn mang tính phổ quát cho toàn nhân loại. Mô hình cai trị độc đoán của Trung Quốc trở nên hấp dẫn đối với nhiều chế độ muốn gắn liền sự phát triển của kinh tế tư bản với việc ngăn chặn tự do cá nhân.
Martin Jacques, một nhà báo Anh rất được đọc tại Hoa Kỳ thì nêu cao kịch bản Trung Quốc sẽ thống trị một thế giới ngày càng trở nên mang tính phương Đông hơn.
Trong khi đó, phần lớn các chuyên gia được phỏng vấn đều cho rằng, khả năng chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong vòng mười đến 15 năm tới, kể cả liên quan đến Đài Loan, rất khó có khả năng xảy ra, bởi Hoa Kỳ sẽ vẫn giữ ưu thế áp đảo về quân sự trong nhiều năm nữa.
Một vấn đề khác cũng đặt ra là tương lai nào cho nhóm hai siêu cường Mỹ - Trung Quốc. Lợi ích của Bắc Kinh và Washington ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, đến mức nhiều người Mỹ lo ngại sự thất bại của Trung Quốc, bên cạnh nỗi sợ Trung Quốc thành công.
Một nỗi sợ khác của người Mỹ là Trung Quốc bắt chước mô hình Mỹ. Đối với những người có cách nhìn lạc quan, sẽ ngày càng có nhiều người Trung Quốc theo đạo Thiên Chúa, những nhà ly khai sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn đến xã hội. Tuy nhiên, thực tế đúng là ngày càng có nhiều người theo lối sống kiểu Mỹ, tiêu thụ kiểu Mỹ, chỉ có điều họ không đi theo hệ thống chín trị, hay theo tôn giáo của người Mỹ. Riêng việc nghĩ đến việc 1 tỷ người Trung Quốc dùng ô tô cá nhân là nỗi lo sợ của không ít người.
Ông Stefan Halper kết luận, thật ra, không có một bản sắc Trung Quốc có thể nhìn thấy được và một định hướng mà xã hội này đi theo, mà chúng ta có thể nắm bắt được. Trung Quốc chỉ là một tấm gương, đối với Hoa Kỳ và phương Tây. Không thể nào tưởng tượng được Trung Quốc, nếu phương Tây không đặt câu hỏi về chính mình. Vào giữa thế kỷ XXI này, dân cư các nước phát triển sẽ chỉ tăng lên 42 triệu, so với 2,3 tỷ dân của các nước nổi lên. 2/3 thậm chí ¾ tăng trưởng sẽ đến từ khu vực thứ hai này. Chính vì vậy, Phương Tây cần phải xem xét lại mối quan hệ của mình với toàn bộ phần còn lại của thế giới. Kẻ thù của Phương Tây chính là thất bại của bản thân mình, chứ không phải là sự thành công của Trung Quốc.
Người đàn bà Rangoon
Để kết thúc mục điểm báo, chúng tôi xin giới thiệu về bộ phim “The Lady”, được L’Express đăng tải, qua lời kể của đạo diễn Luc Besson. Bộ phim về cuộc đời của nhà dân chủ Miến Điện Aung Sann Suu Kyi, giải Nobel Hòa bình, hiện tại đang được quay tại trường phim, và được giữ trong bí mật. Cách đây hai tuần, còn không ai nghe nói thấy bộ phim này, hiện tại, rất nhiều lời đồn thổi xung quanh bộ phim. Trả lời phỏng vấn l’Express từ Oxford, ngay tại trường quay, đạo diễn Luc Besson, sau khi kết thúc chuyến quay trở về từ Thái Lan, cho biết chính số phận phi thường của bà Aung Sann Suu Kyi đã chinh phục ông trong quyết định làm bộ phim này.
T. T.

Trung Quốc quyết đoán - “điều bình thường mới mẻ”?

Những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc và phương Tây có lẽ là dấu hiệu cho những điều sắp tới. Các nhà hoạch định chính sách phương Tây sẽ phải làm quen với điều này.

Những tranh cãi về ngoại giao và kinh tế gần đây giữa Trung Quốc và phương Tây đã gây ra nhiều cú sốc. Điều đó không phải là từ lâu nay, tất cả những gì Trung Quốc làm không mắc phải những sai lầm. Bên cạnh sự phát triển kinh tế dường như không thể kìm hãm, đất nước này cũng được cho rằng đã giành được quyền lực mềm, có được sự tôn trọng và tạo ra được nét hấp dẫn riêng trên toàn thế giới. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc được coi là những người thông minh, tinh tế và có tầm nhìn xa. Công cuộc ngoại giao của quốc gia này cũng được ca ngợi là chuyên cần, hiểu biết và dễ chịu.
Nhưng liệu những tính từ này sẽ còn được sử dụng khi nói về công việc ngoại giao của Trung Quốc hiện nay hay không lại là một chuyện không chắc chắn.
Về mặt kinh tế, chính sách trao đổi thương mại của Bắc Kinh được nhìn nhận như là một trong những nguyên nhân chính cho sự mất cân bằng của nền kinh tế toàn cầu. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc bị chỉ trích là cứng nhắc và đe dọa. Trong khi đó, phản ứng gay gắt của Trung Quốc đáp trả cộng đồng phương Tây về việc trao giải Nobel Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba, một người bất đồng chính kiến hàng đầu hiện đang bị giam giữ trong nhà tù Trung Quốc được xem là quá mức và phản tác dụng.
Vậy điều gì sẽ xảy ra? Làm thế nào một quốc gia có được những tác động hiệu quả trong việc làm dịu những lo ngại về sức mạnh ngày càng tăng của mình và cho thấy sự phát triển của nó là "an toàn" lại bất ngờ tham gia vào những tranh chấp khó chịu với cường quốc phương Tây đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc tạo lên vị thế kinh tế đáng nể của nó?
Liệu suy đoán gây ấn tượng mạnh mẽ về mối quan hệ giữa Trung Quốc và phương Tây là một sự kém minh mẫn tạm thời hay là một trạng thái bình thường mới được thiết lập của những vấn đề này?
Trước khi cố gắng trả lời câu hỏi này, điều cần thiết là phải chỉ ra rằng bản thân Trung Quốc - cả những người lãnh đạo và những công dân bình thường của nó - không nhìn nhận hành vi gần đây của họ là cứng nhắc. Trong con mắt của họ, Trung Quốc chỉ đang bảo vệ lợi ích hợp pháp của quốc gia. Họ cho rằng không có gì sai trái khi tuyên bố vùng biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) là một phần trong "lợi ích cốt lõi" của quốc gia, chống lại những áp lực do Mỹ dẫn đầu trong việc định giá lại tiền tệ, đối đầu với Nhật Bản về các đảo tranh chấp, hoặc mở rộng nền kinh tế của nó tới những quốc gia đang phát triển giàu tài nguyên.
Và đây chính xác là nơi vấn đề phát sinh. Ở một mức độ nhất định, nó có thể được xem như là một vấn đề về những nhận thức trái ngược nhau: người Trung Quốc và phương Tây chỉ đơn giản là xem cùng một bộ các vấn đề từ quan điểm quá khác biệt.
Tuy nhiên, ở mức độ sâu hơn, những căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và phương Tây bắt nguồn từ những xung đột mạnh mẽ hơn và dai dẳng hơn. Chỉ cần những xung đột như thế tiếp tục hình thành nên những định nghĩa của Trung Quốc về các lợi ích của họ và những phản ứng của phương Tây, thế giới có thể nhìn thấy những bất đồng lặp đi lặp lại hoặc thậm chí là những cuộc đối đầu gay gắt giữa Trung Quốc và các cường quốc phương Tây.
Xung đột quan trọng nhất-và rõ ràng nhất là sự chuyển đổi nhanh chóng cán cân quyền lực giữa phương Tây và Trung Quốc. Một hệ quả tất yếu của sự chuyển đổi này, mà đã gia tăng sức mạnh của Trung Quốc một cách nhanh chóng trong những điều kiện giới hạn, là cách giới tinh hoa của Trung Quốc nhận thấy lợi ích của họ và theo đuổi chúng.
Trước khi Trung Quốc có được khả năng hiện tại về kinh tế, ngoại giao và quân sự, một số nhà hiện thực chủ nghĩa ở phương Tây đã dự đoán rằng Trung Quốc sẽ hành động theo kiểu bá quyền một khi nó trở thành một cường quốc, bất chấp những lời hùng biện hoa mĩ của nó về "một sự phát triển hòa bình". Chính sách đối ngoại gần đây của Trung Quốc dường như đã chứng minh cho dự báo này.
Ngoài ra, Bắc Kinh cũng đã trở nên tự tin và quyết đoán trong những năm gần đây vì một vài rào cản chính về việc thực hiện quyền lực của nó ở nước ngoài đã suy yếu hoặc biến mất. Các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan đã làm tiêu hao rất nhiều năng lượng quân sự và ngoại giao của Mỹ nên Trung Quốc, hiện tại, ưa thích một bàn tay tự do hơn ở nước ngoài và có thể lên kế hoạch cho quyền lực của nó - chủ yếu là những tác động kinh tế và ngoại giao - tới những khu vực mà Mỹ đã bỏ quên sau ngày 11/9 (ví như như Mỹ Latinh, châu Phi và Đông Nam Á).
Ngay cả Đài Loan, một rào cản lâu năm đối với sức mạnh của Trung Quốc, hiện tại là một thách thức ít phương hại đến Bắc Kinh sau thất bại của các phong trào ủng hộ độc lập của Đảng Dân chủ Tiến bộ trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 3 năm 2008. Thoát khỏi viễn cảnh kinh khủng của việc phải có một cuộc chiến tranh để ngăn chặn Đài Loan  đạt được một sự công nhận hợp pháp về quyền độc lập, Trung Quốc giờ đây có thể triển khai những nguồn lực của nó để giải quyết các vấn đề quan trọng về lãnh thổ và chủ quyền như vùng biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), việc đã bị trì hoãn khi Đài Loan chủ trì chương trình nghị sự.
Đối mặt với sự tái khẳng định của Trung Quốc về lợi ích của mình, sẽ rất hấp dẫn khi chỉ trích Bắc Kinh đã vi phạm chiến lược lớn của Đặng Tiểu Bình về việc "khiêm tốn và tạo dựng sức mạnh lặng lẽ". Rõ ràng, Trung Quốc đã không còn giữ sự được khiêm tốn - mà trái lại, nó đang phô trước sức mạnh và vị thế mới có của mình.
Có hai giải thích cho việc từ bỏ của Bắc Kinh đối với chiến lược của Đặng Tiểu Bình. Trong nước, Đảng Cộng sản mong muốn cho người dân Trung Quốc thấy được uy tín và tầm ảnh hưởng quốc tế như là một nguồn lực chính trị hợp pháp (thực sự nó đã khá thành công trên mặt trận này). Đó là lý do tại sao Trung Quốc tổ chức Thế vận hội và Hội chợ Quốc tế.
Một lý do khác là Trung Quốc đơn giản có quá ít sự lựa chọn về cấu hình quốc tế của nó. Không giống như 30 năm trước, khi Đặng Tiểu Bình thiết lập chiến lược "khiêm tốn", Trung Quốc ngày nay đã có sự hiện diện cũng như lợi ích trên toàn cầu - và phải bảo vệ chúng. Việc mở rộng sự hiện diện của nền kinh tế Trung Quốc trên khắp thế giới khiến cho các tranh chấp và xung đột với phương Tây trở nên không thể tránh khỏi. Vai trò của Trung Quốc ở châu Phi là một ví dụ. Hai thập kỷ trước đây bạn khó có thể tìm thấy một doanh nhân Trung Quốc ở đó. Ngày nay, bạn không thể tránh khỏi việc va phải họ.
Cuối cùng, nhận thức về sự quyết đoán của Trung Quốc có thể tạo ra một sự thay đổi thái độ của phương Tây đối với Trung Quốc. Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc biết rằng phương Tây dân chủ có một chương trình nghị sự chính trị về các cam kết kinh tế với Trung Quốc, nó đã thay đổi hệ thống chính trị của mình. Nhưng ba thập kỉ cam kết kinh tế ấy đã không đem đến những lợi tức chính trị dự đoán. Thay vì trở thành một cường quốc dân chủ trong nội bộ và mở rộng hợp tác với nước ngoài, Trung Quốc bây giờ ngày càng xuất hiện như một thách thức không chỉ với ưu thế về kinh tế và quân sự của phương Tây mà còn thách thức cả những giá trị tự do cốt lõi của nó. Vì vậy, sự kiên nhẫn của phương Tây là có hạn và sự vỡ mộng về Bắc Kinh đang gia tăng. Trao tặng giải Nobel Hòa Bình cho một người bất đồng chính kiến với Trung Quốc và đang bị bắt giam là không thể tưởng tượng được cách đây vài năm. Ngày nay, điều đó được tán dương trên khắp phương Tây.
Vì vậy, nếu điều này là đúng thì nó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là chúng ta đang bước vào một giai đoạn kéo dài của những căng thẳng leo thang và những tranh chấp thường xuyên hơn giữa Trung Quốc và phương Tây - "một điều bình thường mới mẻ" trong địa chính trị.
Hà Nguyễn dịch từ The Diplomat

 

Trung Quốc thu gom tài nguyên toàn cầu: Cảnh báo từ Ngân hàng Thế giới

Trùng Quang
clip_image001[4]
Công nhân Peru phản đối Công ty Thủ Cương tại mỏ quặng sắt ở San Juan de Marcona - Ảnh: AFP
Việc Trung Quốc tạo ra không ít vấn đề ở những nơi họ tìm đến để khai thác tài nguyên khiến Ngân hàng Thế giới phải lên tiếng.
Trong chiến dịch thu gom tài nguyên, người Trung Quốc không chỉ đến những nước châu Phi như Madagascar, Zambia, Namibia... mà họ còn sang cả châu Mỹ La-tinh. Trung Quốc đã lùng khắp châu lục này để tìm mọi thứ từ đậu nành Brazil, gỗ Guyana đến dầu mỏ Venezuela. Thị trấn khai khoáng San Juan de Marcona của Peru là một trong những nơi đầu tiên tại Nam Mỹ trải nghiệm cái gọi là “hợp tác khai thác” với Trung Quốc.
Sự hối tiếc của Peru
Năm 1992, Công ty Thủ Cương (Shougang), có trụ sở tại Bắc Kinh và là một trong những công ty thép lớn nhất Trung Quốc, mua một mỏ quặng sắt ở San Juan de Marcona. Thời điểm đó, Peru đang chìm trong bạo lực do cuộc chiến với lực lượng ly khai Con đường sáng và sự có mặt của Thủ Cương tạo ra niềm hy vọng mới cho người dân địa phương về công ăn việc làm và một cuộc sống đầy đủ hơn. Tuy nhiên, màu xám nhanh chóng thay thế màu hồng. Theo báo The New York Times, các vụ đình công, xô xát và những vụ tấn công chống giới chủ Trung Quốc xảy ra liên miên. Có lẽ không nơi nào ở Mỹ La-tinh mà sự đề phòng cũng như hối tiếc về đầu tư của Trung Quốc lại đậm đặc như ở San Juan de Marcona.
Các công nhân địa phương cho biết vấn đề nảy sinh khi Thủ Cương cắt giảm phân nửa nhân công bản địa và đưa vào một số lao động Trung Quốc. Công ty Trung Quốc còn bị buộc tội gây ô nhiễm, coi thường các tiêu chuẩn y tế và luật lao động cũng như quyền thành lập nghiệp đoàn của công nhân, theo hãng tin IPS. Các vụ xô xát với các vệ sĩ riêng và cảnh sát được Thủ Cương trả lương xảy ra thường xuyên tại khu ổ chuột Ruta del Sol, nơi công ty tuyên bố họ có đặc quyền khai khoáng. Hồi năm ngoái, một công nhân Peru bị bắn chết ở đây nhưng đến nay vụ việc vẫn chưa được làm rõ.

Các nhà đầu tư ở Lục địa đen cần làm việc đàng hoàng với các cộng đồng địa phương để tránh xung đột
Tổng giám đốc Ngân hàng Thế giới Ngozi Okonjo-Iweala
Các dự án khai khoáng khác do Trung Quốc điều hành ở Peru cũng gặp không ít rắc rối. Theo Bloomberg, Công ty Chinalco hồi năm 2007 đã mua quyền khai thác đồng tại núi Toromocho và dự định bắt đầu vào năm 2013. Tháng 1 năm nay, tại thị trấn Morococha trên núi Toromocho, cảnh sát chống bạo động đã bắn hơi cay để giải tán một đám đông phản đối dự án. Những người biểu tình nói Chinalco “dùng quyền lực” để được cấp phép. Trước đó, vào tháng 11.2009, báo địa phương La República đưa tin 2 nông dân ở tỉnh Huancabamba bị bắn chết liên quan đến một vụ đụng độ tại mỏ đồng Rio Blanco do tập đoàn khai khoáng hàng đầu Trung Quốc là Tử Kim (Jijin) điều hành.
Yêu cầu minh bạch
Theo Bloomberg, chỉ trong năm 2009, các công ty Trung Quốc đã chi đến 32 tỉ USD mua lại các tài sản năng lượng và tài nguyên khắp thế giới và cuộc “viễn chinh” vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Hồi tháng 5.2010, Tập đoàn dầu khí Statoil bán 40% cổ phần mỏ dầu  Prenego ở Brazil cho hãng Sinochem. Đến tháng 10, Tập đoàn Sinopec tuyên bố sẽ đầu tư 7,1 tỉ USD để mua lại 40% cổ phần của chi nhánh hãng dầu khí Tây Ban Nha Repsol ở Brazil, theo Tân Hoa xã. Theo hãng tin UPI, các công ty Trung Quốc cũng mua các dự án khai thác cát dầu ở Canada, mỏ dầu ở Angola, Uganda và Sudan. Báo Telegraph cho biết nhiều công ty khác cũng nhảy vào Mông Cổ để khai thác than, đồng, vàng, uranium. Bắc Kinh cũng đang nắm giữ cổ phần kiểm soát tại các mỏ dầu ở các nước Trung Á như Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan.
Không phải ở tất cả những nơi người Trung Quốc đến để tìm tài nguyên đều “có chuyện”, nhưng những vấn đề đã và đang phát sinh rất đáng quan ngại. Từ chuyện người Trung Quốc biết gỗ lậu mà vẫn mua ở Madagascar, đến chuyện trả lương thấp và phớt lờ cải thiện điều kiện làm việc dẫn đến xung đột ở Zambia, từ chuyện đổi “học bổng” lấy tài nguyên ở Madagascar đến âm mưu thay công nhân địa phương bằng lao động Trung Quốc ở Peru... tất cả đều tập trung ở sự thiếu minh bạch.
Phát biểu với Reuters tại một hội nghị về khai khoáng diễn ra tại thành phố Thiên Tân, Trung Quốc, hồi giữa tháng 11, Tổng giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) Ngozi Okonjo-Iweala nhấn mạnh các công ty Trung Quốc phải minh bạch trong các hoạt động đầu tư tại châu Phi nếu không muốn gánh chịu phản ứng dữ dội. Bà nói các nhà đầu tư ở Lục địa đen cần làm việc đàng hoàng với các cộng đồng địa phương để tránh xung đột.
Tuy chỉ nói về châu Phi, nhưng lời cảnh báo của lãnh đạo WB cũng không thừa đối với tất cả những nơi khác trên thế giới. Nhập nhèm cũng là tình trạng đang diễn ra tại Afghanistan, một điểm đến khác của các nhà đầu tư Trung Quốc. Cuối năm ngoái, Bộ trưởng Mỏ Mohammad Ibrahim Adel bị cách chức vì nhận hối lộ của một công ty Trung Quốc để trao cho họ quyền khai thác mỏ đồng Mes Aynak lớn thứ hai thế giới ở tỉnh Logar, theo Politics Daily. Việc triển khai dự án này cũng đang đe dọa phá hủy di tích tu viện Phật giáo có lịch sử 2.600 năm trước khu vực mỏ.
T. Q.

Nguồn: Thanhnien

Không có nhận xét nào: