Ngô Minh
Những nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Đinh Kim Phúc... đã viết rất nhiều, rất chính xác rằng lãnh hải Việt Nam trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được ghi rõ trong nhiều bản đồ cổ của nước ta và thế giới từ 600 năm trước.
Xin tóm lược các ý kiến của các tác giả: Hai bản đồ An Nam quốc (Hồng Đức 1490) và Vương quốc An Nam (Alexandre de Rhodes 1650) vẽ khá rõ Biển Đông và hải đảo Việt Nam đương thời. Hàng trăm bản đồ thế giới của các nước Tây phương vẽ, hầu hết trong đó đều có ghi nước ta với các đảo Hoàng Sa – Trường Sa mà họ gọi là Paracel hay Pracel.
Vua Lê Thánh Tông đã đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào bản đồ Đại Việt năm Canh Tuất (1490). Bộ sách Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá (hiệu Công Đạo) vào khoảng 1630 – 1653 gồm 4 quyển, trong quyển 1 có ghi: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm…” và có một bản đồ vẽ nhóm đảo thuộc Quảng Ngãi, phủ Thăng Hoa với chú thích chữ Nôm là “Bãi Cát Vàng”. Đặc biệt hai bản đồ An Nam đại quốc họa đồ (Taberd 1838) và Đại Nam nhất thống toàn đồ (1840) thể hiện khá đầy đủ hải đảo Việt Nam, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.
Có cả những bản đồ về Biển Đông do người Trung Quốc vẽ mô tả khá rõ Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, như: Giao Chỉ quốc – Giao chỉ dương trích; Việt Nam đông đô – Việt Nam tây đô với Đông Dương đại hải của Ngụy Nguyên (1842); Bản đồ An Nam quốc với Đông Nam hải của Ngụy Nguyên (1842)…
Không chỉ vẽ trên bản đồ, mà từ rất sớm, người Việt Nam từ xưa đến nay đã xác lập chủ quyền và tổ chức quản lý, khai thác các đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long (1802-1820) đã có chính sách khai thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sử sách nhà Nguyễn ghi chép vào năm Bính Tý (1816) vua Gia Long sai người ra hải đảo cắm cờ tại Bãi Cát Vàng. Minh Mạng là vị vua đầu tiên cho khảo sát chi tiết các đảo tại Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa và Trường Sa). Sách Đại Nam thực lục chính biên cho biết, năm Giáp Ngọ (1834) vua Minh Mạng đã sai Đội trưởng đội Hoàng Sa là Trương Phúc Sĩ dẫn 20 thủy thủ đi đo đạc kích thước, vẽ bản đồ, đo độ nông sâu, địa thế các đảo. Những người không hoàn thành nhiệm vụ đều bị xử phạt. Như Giám thành Trương Viết Soái, năm Bính Thân (1836) khi về không có bản đồ đệ trình đã bị xử “trảm giam hậu” (chém nhưng tạm giam trước)…
Bên cạnh việc khai thác, tuần phòng trên biển, vua Minh Mạng còn cho tiến hành xây dựng nơi thờ tự (chùa, miếu), trồng cây, dựng cột, bia chủ quyền tại một số đảo vào các năm 1833, 1835, 1836…
Việc cho quân đồn trú, tiến hành thu thuế và bảo vệ ngư dân cũng đã được thực hiện.
Thời vua Khải Định đã tái khẳng định chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa trước yêu sách vô lý của của Quốc dân đảng Trung Hoa. Ngày 3 tháng 3 năm 1925, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề thay mặt triều đình Huế đã xác nhận chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư: “Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”.
Đến thời vua Bảo Đại đã thay đổi đơn vị hành chính các đảo ở Biển Đông. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (tên chung là Bãi Cát Vàng) là một đơn vị của đất Thuận Quảng, sau đó đổi tên là Quảng Ngãi. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục đã ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải năm 1776: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré…; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải…
Đến vua Bảo Đại, việc phân tách thành hai quần đảo mới được xác lập. Tháng 12.1933 các đảo Trường Sa sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa, rồi Hoàng Sa thuộc Đà Nẵng. Đến ngày 29 tháng 2 năm Mậu Dần (1938) vua ra Chỉ dụ số 10 chuyển đổi và chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên. Ngày 5.6.1938, toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký nghị định thành lập đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và cho dựng bia chủ quyền tại đảo Hoàng Sa.
Sách Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn ghi chép rất rõ việc quản lý đảo Hoàng Sa của các vua Nguyễn. Xin nêu một vài chi tiết trong Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền tam bản đến bờ biển Bình Định. Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp… Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: “Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 194, trang 7 và 8, năm Minh Mạng 20 (1839) chép: “Tháng 7, Viên ngoại lang Công bộ Đỗ Mậu Thưởng vâng lệnh phái đi công cán Hoàng Sa về, đem bản đồ dâng lên… Đỗ Mậu Thưởng và các người đi cùng đều được gia thưởng áo quần và tiền”.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 204, trang 3 và 4, năm Minh Mạng 20 (1839) chép: “Tháng 7, Phái viên đi Hoàng Sa là bọn Suất đội Thuỷ sư Phạm Văn Biện trước đây bị bão sóng làm tản mát, đến nay lục tục về tới Kinh. Hỏi, chúng nói nhờ có thuỷ thần cứu giúp. Vua sai bộ Lễ chọn địa điểm ở đồn cửa biển Thuận An đặt đàn dùng lễ Tam sinh hướng ra biển lễ tạ. Thưởng tiền cho Phạm Văn Biện và viên biền binh, dân đi theo phái đoàn có thứ bậc khác nhau, v.v.
Từ năm 1909-1933, chính phủ Pháp cai trị Đông Dương liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những tư liệu trên cho thấy Hoàng Sa, Trường Sa từ hơn 600 năm trước, khi mà người Trung Quốc chưa biết nhiều về “biển đảo“, đã là của Việt Nam. Dù không có bất cứ chứng cớ lịch sử nào, Trung Quốc vẫn cứ cho là các đảo trên Biển Đông đó thuộc chủ quyền của họ. Rồi họ ngang nhiên vẽ đường lưỡi bò (đường 9 đoạn) kéo gần hết Biển Đông vào bản đồ của họ. Họ còn tuyên bố cấm đánh bắt hải sản trên Biển Đông. Tàu thuyền ngư dân Việt Nam ra khơi đánh cá trên biển hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt nam bị tàu kiểm ngư Trung Quốc bắt, đánh đập, thu tàu, ngư cụ và hải sản đánh bắt được, đòi bồi thường nhiều lần. Các tàu thăm dò địa chấn của Tổng công ty dầu khí Việt Nam hoạt động trong vùng biển 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền Việt Nam theo Luật biển quốc tế năm 1982, bị tàu giám ngư của Trung Quốc cắt cáp, vì họ cho rằng “xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của họ”. Trung Quốc âm mưu biến vùng đặc quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp.
Bản đồ An Nam
Sự thật là như thế, chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa thuộc về Việt Nam là không thể chối cãi.
Nhưng điều băn khoăn nhất là lâu nay chúng ta đã không quan tâm đến việc giới thiệu, tuyên truyền chủ quyền biển đảo của một cách quy mô trên phạm vi toàn thế giới. Trong lúc đó Trung Quốc lại rất sốt sắng làm việc này. Họ lên kế hoạch hàng trăm năm xâm chiếm lãnh thổ các nước láng giềng bằng mọi thủ đoạn. Họ ra sức tuyên truyền “chủ quyền” của họ trên biển bằng mọi hình thức, ở tất cả các ngành, các cấp, nên nhân dân thế giới khi nghe đến việc tranh chấp Biển Đông lại không biết Biển Đông ở đâu vì họ chỉ quen gọi là Biển Nam Trung Hoa. Lợi dụng sự nhầm lẫn đó, người Trung Quốc vẽ bản đồ của họ bao gồm cả đường lưỡi bò tung ra khắp nơi.
Năm 2007, Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã thiết lập một đơn vị hành chính trên đảo họ kiểm soát và đặt dưới sự quản trị của huyện Nam Sa. Thậm chí, Trung Quốc còn nói bừa rằng, lãnh hải (chiếm 80% Biển Đông) của họ phù hợp với qui định của Công ước Liên hợp Quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982!? Họ cứ tuyên truyền như thế, nhưng vì Việt Nam không có tiếng nói vạch trần sự gian dối, nên nhân dân thế giới lại tin như thế!
Mới đây Tập san Waste Management số 31 (2011) có công bố một bài báo khoa học của một nhóm tác giả Trung Quốc. Trong bài báo, các tác giả trình bày một bản đồ của Trung Quốc với đường lưỡi bò. Chẳng những trình bày đường lưỡi bò, họ còn vẽ những đốm đen nhỏ, hàm ý chỉ những quần đảo trong khu đó là lãnh thổ của Trung Quốc. Khi các trí thức Việt Kiều trên thế giới phát hiện và thông báo lại thì ta mới “lên tiếng phản đối”. Đó là cách tuyên truyền chạy theo rất bị động.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn, các bài báo khoa học các tập san quốc tế trong 10 năm (1996 – 2005) có 3456 bài, các nhà khoa học Việt Nam chỉ có chỉ có 69 bài (xấp xỉ 2%) liên quan đến khoa học xã hội. Trong đó không có bài nào liên quan đến vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa cả. Nên có thể nói rằng mặc dù chúng ta có nhiều chứng từ, chứng cớ nhưng dường như chúng ta chỉ nói để chúng ta nghe với nhau, chứ chúng ta chưa có kế hoạch trình bày các chứng từ đó một cách có hệ thống trên các diễn đàn quốc tế, trong các tạp chí, tập san nổi tiếng thế giới, trong các hội chợ, triển lãm trên thế giới.
Vì vậy tôi đề nghị Chính phủ phải đề ra cho các Bộ, các ngành lập kế hoạch chủ động giới thiệu, tuyên truyền về chủ quyền biển đảo Việt Nam trên toàn thế giới. Đây là việc làm vô cùng cấp bách để cho dư luận thế giới hiểu rõ sự vô lý của phía Trung Quốc khi có tranh chấp xảy ra trên Biển Đông, Trung Quốc không thể có những chứng cứ khoa học về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa đậm đặc, chắc chắn như chúng ta, nên chúng ta phải tận dụng cơ hội này.
Cục Bản đồ Việt Nam phải xuất bản tập bản đồ Việt Nam cập nhật từ xưa đến nay bao gồm cả biển đảo, vùng đặc quyền, thềm lục địa và tìm cách phát hành trên thế giới.
Chính phủ phải mời các nhà khoa học Việt Nam (trong và ngoài nước) viết thật nhiều bài in trên các tạp chí, tập san quốc tế về chủ quyền biển đảo Việt Nam; phải tổ chức những bộ sưu tập đồ sộ các bản đồ cổ, các tập sách viết về Việt Nam của các tác giả phương Tây trong đó có nói đến Hoàng Sa, Trường Sa; xây dựng những bộ phim tư liệu về những Đội Hoàng Sa ở Lý Sơn, phim tư liệu Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Sưu tập các bản dập các Mộc bản triều Nguyễn về các chỉ dụ của các vua Nguyễn về việc tuyển mộ quân cho Đội Hoàng Sa, lệnh về cử người phụ trách, hay khen thưởng những người có công và phạt những người không hoàn thành nhiệm vụ khi ra Hoàng Sa, v.v. Tất cả phải được thuyết minh bằng nhiều thứ tiếng.
Tất cả những bộ sưu tập đó làm thành hàng trăm bộ để cho các sứ quán ta ở nước ngoài tổ chức triển lãm trong các cuộc hội thảo về biển, lưu trữ ở thư viện Liên Hiệp Quốc và các thư viện lớn trên thế giới; triển lãm trong các “Ngày văn hóa Việt Nam” ở nước này nước khác, hoặc triển lãm trong các hội chợ về thương mại - du lịch mà ta được mời.
Ngay trong nước, ở Festival Huế, Festial biển Nha Trang, Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng… cũng phải có triển lãm về bộ sưu tập chủ quyền biển đảo này.
Chính phủ phải nghiên cứu mở Đài phát thanh quốc tế Việt Nam trong đó có chương trình tiếng Trung Quốc. Làm được như vậy, nhân dân thế giới sẽ hiểu rõ hơn về chủ quyền của nước ta trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ bị cô lập, bị thế giới phản đối khi xâm lấn lãnh hải nước ta.
N.M.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét