Chúng tôi đã đăng bài Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất tất nhiên” của Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và được đông đảo bạn đọc ở trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh, khen ngợi, truyền cho nhau đọc…
Kỳ này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi cho một bài mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật đi lật lại vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện sự tin tưởng vào lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.
Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.
Phạm Tôn
Năm 1992 tôi là Trưởng ban Ban văn học Cổ cận đại Viện Văn học, đồng thời đang đảm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện. Vào khoảng tháng Hai năm ấy, vừa sau Tết âm lịch, tôi tính ra biết sắp đến 75 năm ngày ra đời Nam phong tạp chí (1-7 -1917 – 1-7-1992), bèn bàn với Viện trưởng Viện Văn học lúc bấy giờ là Phong Lê tổ chức một Hội thảo Khoa học trong phạm vi hẹp ở Ban văn học Cổ cận đại, mời các chuyên gia văn học Cận đại và những học giả có hiểu biết về Phạm Quỳnh và về Tạp chí Nam phong đến trao đổi với nhau một cách thực sự cầu thị về chỗ được và chỗ không được của tờ tạp chí này cùng những đóng góp của ông Chủ bút Phạm Quỳnh, giới hạn ở góc độ một nhà văn hóa. Phong Lê tán thành đề nghị của tôi.
Một mặt chúng tôi gửi thư mời đến nhiều học giả, được các anh Nguyễn Đình Chú, Trần Quốc Vượng, Vương Trí Nhàn, Phạm Xuân Nguyên... và các cụ Hoàng Đạo Thúy, Vương Hồng Sển... nhiệt tình hưởng ứng, ai cũng nhận lời viết bài cho hội thảo; mặt khác tôi đích thân đến gặp ông Hoàng Tùng, bấy giờ đã hưu trí, để xin ông tư vấn thêm. Ông Hoàng Tùng nghe có hội thảo Nam phong thì tỏ ý rất vui, ông nói với tôi: “Bác Hồ không bao giờ tán thành giết Phạm Quỳnh. Khi nhận được báo cáo đã giết cụ Phạm, Bác ngạc nhiên lặng đi, rồi giơ tay làm hai vạch chữ thập trên tờ báo cáo, tỏ ý không chấp nhận việc làm xốc nổi tả khuynh ấy”.
Tôi còn viết thư cho ông Nguyễn Văn Trung ở TP Hồ Chí Minh mời ông viết bài, có nói rõ: quan điểm đánh giá như thế nào là tùy ông chứ không áp đặt. Một thời gian ngắn sau tôi nhận được cuốn sách Trường hợp Phạm Quỳnh do ông gửi tặng, kèm theo lá thư của ông, báo tin không tham gia Hội thảo được vì quá bận.
Tôi và Phong Lê lại rủ nhau đến gặp gia đình Phạm Quỳnh là nhạc sĩ Phạm Tuyên và GS Bác sĩ Phạm Khuê trình bày mục đích yêu cầu của hội thảo và mời hai ông tham dự. Vợ chồng nhạc sĩ Phạm Tuyên hết sức hoan hỷ, nhận lời sẽ cho vẽ một pa-nô làm phông cho hội thảo, còn BS Phạm Khuê lúc đầu có hơi ngần ngại vì sợ sẽ không đến đâu cả, nhưng sau khi nghe tôi nói rõ đây là hội thảo về Nam phong tạp chí, mời những tiếng nói nhiều chiều tranh luận với nhau, cốt tìm ra chân lý, chứ không phải nhằm kỷ niệm học giả Phạm Quỳnh, bởi chưa đến lúc, mặc dầu thế nào cũng có ngày ấy, ông bèn đổi ngại làm vui và nhận lời đến nghe với tư cách con cháu trong gia đình.
Trong tháng Sáu, công việc chuẩn bị của chúng tôi đã tạm xong. Các tham luận gửi về đã tương đối phong phú. Anh chị em xếp đặt chương trình bài nào trước bài nào sau, chủ trương trong vòng một ngày mỗi người chỉ đọc chừng 20 phút, còn 20 phút nữa là dành cho trao đối ý kiến như các Hội thảo mà tôi thường tổ chức. Giấy mời cũng đã in.Tôi bèn đến nhà nhạc sĩ Phạm Tuyên xem lại tấm pa-nô, thấy kẻ chữ rất công phu, tiêu đề lớn ghi rõ: Hội thảo 75 năm Tạp chí Nam phong và học giả Phạm Quỳnh, ở dưới đề thêm Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học chủ trì, thế là có thể yên tâm.
Vào khoảng giữa tháng Sáu, Viện Văn học có tổ chức một hội nghị mà đến nay tôi không còn nhớ là hội nghị gì nhưng có nhiều vị khách quan trọng được mời, trong đó có ông Tố Hữu. Tôi biết lúc này ông Tố Hữu đã thôi giữ chức Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng và Bí thư Trung ương Đảng lâu rồi, tuy vậy vẫn là một nhân vật danh dự trong nhiều cuộc họp, và mỗi lần nghe ông phát biểu – tuy khá hiếm hoi chứ không nhiều như trước – người ta vẫn nể xen với e dè. Có một nữ Giáo sư ở Khoa Văn Trường đại học Sư phạm cũng đến dự hội nghị, nhân nhìn thấy ông Tố Hữu và cũng nhân có tôi đang ngồi cạnh chị, chị bèn bảo: “Này, có ông Tố Hữu ở đây, anh tiếc gì mà không đến nói với ông ấy một tiếng cho phải phép; chả ông trước là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa, chuyện cái chết của Phạm Quỳnh chắc ông ấy phải rõ chứ!” Tôi nghe bùi tai bèn đi thẳng đến chỗ ông Tố Hữu đang ngồi ở bàn trên xin tranh thủ gặp ông vài phút, rồi khi ông vừa quay lại gật đầu là tôi nói ngay vào đề, rằng Ban văn học Cổ cận đại của Viện sẽ tổ chức một hội thảo hẹp nhân 75 năm Tạp chí Nam phong vào ngày 1-7 tới, nhân thể có lời mời ông đến dự cho vui. Ông vừa nghe, hai mắt nhướng lên, mặt vẫn không đổi sắc nhưng có vẻ trắng hơn, sau đâu chừng vài phút im lặng như ngẫm nghĩ, bèn nói, giọng vẫn chầm chậm rỉ rả: “À... à... Tạp chí Nam phong à? Chuyện này... theo mình thì có lẽ còn hơi vội...” Ông im một lát rồi nói tiếp: “Để chừng hai ba năm nữa hãy làm... sẽ thuận hơn”. Ông chỉ nói có thế và nhìn xoáy vào mắt tôi, nhắc rõ từng tiếng “E còn hơi vội đấy... để chừng vài năm nữa...” đến lần thứ hai. Tôi cũng nhìn lại ông như bày tỏ một sự ngạc nhiên nhưng không đáp lại, sau đó gật đầu chào ông rồi rút lui.
Sau buổi họp, tôi có trao đổi lại với Phong Lê. Chúng tôi cân nhắc, cho rằng mấy lời của ông Tố Hữu chỉ là một ý kiến để tham khảo. Vả chăng, cuộc hội thảo đã thu lại trong phạm vi một ban chuyên môn thì chỉ là thảo luận học thuật thông thường, như các buổi thảo luận khác mà Ban thường làm, chứ không phải là hội thảo khoa học nhằm truyền thông rộng rãi, bởi vậy ta cứ tiến hành. Tôi bèn cho phát giấy mời và báo cho nhạc sĩ Phạm Tuyên đúng sáng 1-7 đưa pa nô đến thật sớm.
Tối hôm 30 tháng Sáu, khác với thường lệ, tôi không về nhà mà nằm lại ở phòng làm việc tại tầng một cuối ngôi nhà lớn của Viện (chúng tôi đã được chia nhà từ mấy năm trước nhưng vẫn có thói quen nằm lại phòng làm việc mỗi khi có chuyện gì khẩn), để đọc lại bản Đề dẫn và soát lại các bài tham luận của mọi người gửi tới. Rất khuya, bỗng nghe từ phía Phòng Hành chính gần ngoài cổng Viện có tiếng reo của chuông điện thoại. Trong không khí yên tĩnh, tiếng chuông tuy xa nhưng nghe rất rõ. Như có linh tính, tôi bỏ giấy xuống và chạy vội ra hành lang. Khi đến nơi thì một người nào đó không hiểu vì sao có khóa đã kịp mở cửa vào Phòng Hành chính cầm ống nghe và báo lại với tôi: “Trên Tuyên giáo Trung ương báo xuống ngày mai hãy dừng hội thảo Nam phong lại đã”. Tôi chỉ biết đứng sững người. Một cái lệnh đến vào giữa khuya không sao kịp xoay trở. Tính toán giỏi quá chừng!
Hôm sau anh chị em trong Ban đến rất sớm, không cần nói người nào cũng hiểu ngay cơ sự trước bộ mặt ủ ê của tôi. Chúng tôi lại phải chầu chực trước cửa Viện tìm những lời khéo léo xin lỗi quý khách để mọi người thông cảm và yên tâm ra về.
Nguyễn Huệ Chi
Bài: Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Phạm Quỳnh “ở nhà”, không tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù Chính phủ của ông Kim gồm phần lớn các Bộ trưởng là những người yêu nước, ghét Pháp, cũng không ưa Nhật (…)
Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn “nghỉ việc”, để chăm lo vào đường văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu tình, ông chẳng những không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và may cở đỏ sao vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người yêu Tổ quốc – theo cách của ông – đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam – đấu tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v. Và cũng biết mình chưa nắm được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin) vào suy nghĩ của mình,
không lường được những gì sẽ xảy ra, chủ quan không chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ.[1]
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên Trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha[2] hạ cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá cờ rộng chừng 100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước núi Ngự Bình, trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.
Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan Hàm sinh viên Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế - NVK chú) nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ[3] và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa ông Phan Tử Lăng[4] trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai Tiểu đội lính Bảo An (một Tiểu đội do tôi chỉ huy, một Tiểu đội do anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh”.
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra, ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
Phần cuối tập tư liệu 10 trang do chính tay Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do Thiếu tướng viết.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - N.V.K) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh Trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”[5].
“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó giao cho anh Nguyễn Trung Lập[6] đưa họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài[7].
Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An. Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ, vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm Quỳnh ở đâu? (nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”
Trong khi đó, cũng ngày 23 “sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Chiều, người qua sông Hồng ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha ở làng Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)[8]”. Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo8. “Chiều, người đi ô tô vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng Ngang”8. Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập Chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả những đảng phái, những người có danh vọng”8
Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền, dành thời gian soạn Tuyên ngôn độc lập. Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người[9] thay chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm”[10].
Trong đêm 23 tháng 8, Chính phủ cách mạng lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn Chính phủ ta[11].
Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, chưa rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh không? Và Người có kịp căn dặn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế tìm hiểu hoặc đến thăm Phạm Quỳnh?
Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Ngày 30, Trần Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không được. Vì, có thể là những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là “có dấu hiệu Pháp liên lạc với Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc là có báo tin về Hà Nội, nên ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại), Hoàng Hữu Nam đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt”[12] thì Bác đã nói ngay “Bất tất nhiên”[13].
Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.
Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945[14], theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành lập vào ngày 1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An[15]. Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp, leo lên tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn tồn nói: Mời các ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ, rồi dùng ca nô lên bờ sau. Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo, giương buồm, hướng biển khơi mà chạy [16]. Có thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?
Báo Quyết thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “Cả ba tên Việt gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”[17].
Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu. Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hay ông Hoàng Anh – phụ trách chính trị đại diện Đảng bố trí trong chính quyền – ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa.
Theo tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào cửa Thuận An ngày 6 tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có thể tiếp tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm nhảy dù “Phạm Quỳnh ở
đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm Quỳnh làm “phiên dịch” hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi” (và “không bao giờ trở về nữa”), ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời, sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước – có chăng là chưa thuận theo thời đại – ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những người Cộng sản Việt minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát nhân!” (Quân giết người).
Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết một học giả (chú ý: Bác không nói người mà nói học giả) như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ Cụ) ở Pháp. Đó không phải là người xấu”[18].
Trở lại với thông báo của Việt minh Trung Bộ, ta có thể đặt các câu hỏi sau đây:
a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7) tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?
b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”. Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa phương nào? Có được Chính phủ cho phép?
c) Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao nhiêu? Ai là quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v. và v.v.)
d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh còn dựa vào thế lực Pháp (…) bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy, khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được bao nhiêu “tài sản”, vàng bạc, v.v.? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của Thiếu tướng Phan Hàm: “Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng có tài sản gì…(ngoài khẩu súng săn)”? Và nếu thu được “tài sản” liệu có thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?
đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Tòa án Quân sự Thuận Hóa”
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:
1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa là sau khi nước ta tuyên bố độc lập, có Chính phủ rồi, hệ thống chính quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy ban Khởi nghĩa?
2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa – sự thật đã có hay chưa? Ai là Chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9, sắc lệnh số 33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa án Quân sự sẽ xử tất cả những ai có hành động phương hại đến nền độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Những quyết nghị của Tòa án Quân sự sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án –NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng tôi nhấn mạnh – NVK), cần có thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm – NVK chú) nếu họ muốn và phải được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình – NVK chú) thành vô giá trị”.
Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao đến ngày 9 tháng 12 cùng năm, Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án – một việc đã làm cách đó hơn ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?
Phải chăng đây là một “tờ trình” cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết quân luật” đã qua, việc “kết án tử hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng cần nói thêm là khó có thể tránh…Tuy nhiên, nước nhà đã độc lập, đã có Chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội họp…không bị xâm phạm thư từ, tài sản, càng không được xâm phạm tính mệnh). Nhưng những người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, chịu trách nhiệm trước dân lại vô tình (hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào uy tín của cách mạng, tự tiện quyết định mà không cần xin phép, không báo cáo…Họ chủ trương (có hay không?) làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ, mà cần xem xét sự việc này như là một “di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ 1930 – 1931 còn sót lại, với “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những “nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”[19].
Tạp chí Tri tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bài Cuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh - NVK chú).
Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói: “Trong Chính phủ lâm thời có cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng có, nông dân cũng có, công nhân cũng có (chú ý: Bác không nói Việt minh – Cộng sản – Dân chủ – Quốc Dân đảng – NVK chú)… Lúc này bất cứ người nào miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể phụng sự quốc gia, Tổ quốc”…[20].
Chắc chắn là vẫn còn những nhân chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được nhiều vụ việc – trong đó có “vụ Phạm Quỳnh”.
Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi mà vẫn “lỡ”[21]. “Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô lệ, mỗi người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự cống hiến cho Tổ quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc, “lỡ” để mất đi “một học giả”… khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần những “học giả” như thế…
Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.
Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ mai sau cũng “mờ mờ” theo[22].
N.V.K.
[1] Xin nói rằng bộ phim Ngọn nến hoàng cung, dù là phim “tiểu thuyết lịch sử” (do Đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng tác” ra quá nhiều chi tiết-sự kiện phi lịch sử – sai lệnh về cách ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2] Đặng Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại vương”, vua đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, Thiếu tướng Cục Tình báo, đã mất.
[3] Võ Quang Hồ, Thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TP HCM. Điện thoại số: 3996 7419
[4] Phan Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương Văn Minh, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được Chính phủ Trần Trọng Kim giao “Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của Chính phủ”, trực tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng Trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] Tư liệu viết tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6] Trung đoàn phó 84 – Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà 50 – đường 40 – phường Thảo Điền – Quận 2 – TP HCM. Điện thoại số: 3512 5778
[7] Theo bài Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TP HCM. Điện thoại số: 3844 7396
[8] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285….
[9] Theo hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn Chính phủ lâm thời từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một Tiểu đội Giải phóng quân đi theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy dù xuống Huế, tên Pháp vừa nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh. Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều tên tay sai của Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không được báo cáo). Bác viết thư chứ không đánh điện, có thể là một cử chỉ coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn, Lịch sử Việt Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340.
[12] Nhà văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách Trường Thanh niên Tiền tuyến - Huế, trang 242. Đoàn Huyên, Thiếu tướng đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: 7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TP HCM. Điện thoại số: 3844 6322
[16] Trong hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17] Lưu tại Thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi, “Việt gian đại bợm” thế nào? Thông tin về con người này còn quá ít
[18] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ khử mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là ông Tôn Quang Phiệt cũng không đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương pháp) tiến hành vụ xử. Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19] Trong Cách mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ “xử bắn”, “bắt giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ, nhiều quan Tổng đốc, Án sát… do “đoàn thể” quán triệt đường lối của Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20] Cuối năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả lời các nhà báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới. Đảng ấy có tên gọi là Đảng Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài Đã gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành tích”, chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy mà cũng đã được công chúng ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá, xác định vai trò của Phạm Quỳnh – người có công lớn với văn hóa nước nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch sử còn công bằng không? Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa hề có môn lịch sử?
Nguồn: Pham Ton’s blog - Phamquynh.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét