Tác giả: Đỗ xuân Quý/ÔGia
Mẹ đã biết.
Con không phải một Phật tử ngoan đạo nhưng mỗi mùa lễ Vu Lan về, con đến chùa thắp hương dâng mẹ. Mùi hương thơm con nhớ mẹ. Hai chữ báo hiếu giày vò kí ức của con. Con đã làm được gì cho mẹ! bổn phận làm con! Con chưa báo hiếu cho mẹ.
Ngày xưa.
Từ khi còn nhỏ con thích bài thơ, bản nhạc "bông hồng cài áo", nhưng mỗi khi đọc hay nghe bài thơ ấy làm con sợ sệt lo âu khi mẹ còn sống.
Và một bông Hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ.
Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn.
Nhưng rồi chuyện gì đến phải đến. Mẹ của chúng con đã ra đi! chúng con đã trở về :
Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi.
Như đóa hoa không mặt trời
Như trẻ thơ không nụ cười...
Con không nhớ bắt đầu từ cơ hội nào mẹ gặp cha, nhưng có lẽ khi Nội qua đời lúc cha mới vừa lên năm. Để tránh sự khổ cực ở quê nhà, mười hai tuổi cha thoát ly đi Trong rồi cha gặp được một cô công nhân của bịnh viện An Khê, Pleiku. Vừa trẻ và đẹp trải lòng thương cha.. Ngoại chấp thuận lời cầu hôn của cha, cùng cho phép đưa mẹ về quê chồng trong lúc mẹ đang mang thai người con đầu lòng. Quyết định về lại quê cha đất tổ là của cha, mẹ chỉ đi theo cho trọn nghỉa " Xuất giá tòng phu". Về lại quê nhà, cha thi thố tài năng, từ căn nhà tranh, nền đất, không vách chật hẹp đến những nhà máy dẩn thuỷ nhập điền, cha bận rộn công việc đồng án mẹ âm thầm ở nhà sinh đứa con đầu lòng, từ đó nhân số nhà mẹ lên đôi lên ba. Mẹ ở nhà nuôi dạy chăm chút anh chị lớn của con để cha tung hoành ngang dọc. Gia đình mình bắt đầu làm ra kiếm thấy. Bạn bè, họ hàng bên nhà chồng ngày lại càng đông, những buổi tiệc, hội hè một tay của mẹ lo toan, cha được nở mày nở mặt, mẹ đón nhận những khen tặng tâm tình!
Rồi chiến tranh năm 1945 nóng bỏng, mẹ gánh nặng vác nhẹ, anh trước, chị sau tìm nơi trú ẩn bao bọc cho hai đứa con đầu lòng . Sau khi hết tiếng bom đạn, trở về làng thì nhà của mẹ đã trở thành đống tro tàn...
Cha lại ra công gầy dựng, mẹ tiếp tục chăm lo anh chị. Rồi trên đà thăng tiến, nhà mình đã có đến sáu anh chị em, sáu người con mười hai tính; nhưng chúng con không hề thấy mẹ giận hờn hay to tiếng, đứa ngoan, đứa hư mẹ cũng âm thầm, chìu chuộng, không một lần nặng lời trách than.
Tưởng rằng đứa con trai út của mẹ ra đời như để chào đón những năm hoà bình sau 1954. Nhưng oan nghiệt thay, đứa em của chúng con đã chết đột ngột trong vòng tay ấm êm của mẹ. Người anh cả của chúng con chưa kịp tiển đứa em ra đi lần cuối, thì lệnh lên đường thi hành nghĩa vụ quân dịch cùng đến.Mẹ khóc. Ở vào tuổi lên năm con đã chứng kiến mẹ khóc vật vả bên giường, ôm đứa con bé bỏng trong tay, ấn sát vào lòng như cố chuyền hơi thở ấm áp của mẹ cho con...cho tim con sống dậy...cho con lần cuối...Chúng con không biết còn sự đau đớn nào hơn, trên đường đưa đứa con út của mẹ ra nghĩa trang, trước mặt mẹ quan tài của em, sau lưng là đứa con đầu lòng của mẹ đang bên bờ đê rời quê ra đi ... còn cảnh đời nào đau khổ hơn đến với mẹ!
Trở về nhà sau khi chôn cất em, mất con, vắng người con trai cả, mẹ ngã người giửa nhà khóc tức tưởi, không nghĩ đến sức khỏe của mẹ, dường như mẹ muốn chết thay em, muốn ra đi thay cho anh...mẹ héo hon và trầm lặng hơn xưa…Cha đã mất nhiều ngày dỗ dành an ủi...vổ về mẹ...mẹ chỉ có cha...
Gia đình mình bắt đầu đi xuống từ đó; người trai lớn thay cha lo công xưởng mỗi ngày đã ra đi, cha ngã bịnh, cơ ngơi sự nghiệp dần dà bán hoặc thế chấp cho người chú, ông bác để lo chạy chữa cho cha.Bao nhiêu gánh nặng đè lên đôi vai mảnh khảnh của mẹ.Xưa nay mẹ ẩn nấp sau lưng cha lo việc hậu trường nay mẹ ra quân tham trận. Ở miền quê không ruộng, không tay cấy tay cày. Mẹ chuyển qua hướng dẩn các anh chị trồng cà, gieo bí ở mái hiên trước, bờ ao sau vườn một cách thật tháo vát, chuyên nghiệp. Sức của mẹ có hạn nên cà và bí bán ra cũng không kịp đủ để chạy chữa cho cha, thầy lang từ xóm trong làng ngoài bó tay... và của cải dành dụm lâu nay cũng bay theo... không còn những thứ giá trị để đổi hoặc bán đi nhưng mẹ cũng không bỏ cuộc; vay kẻ ở làng trên, mượn người xóm dưới để mong chữa lành bịnh cho cha, đưa cha ra quận ra tỉnh, thành phố rồi thành phố nhưng bịnh tình của cha cũng không thuyên giảm.
Cho dù đau chết ở nửa đường đến SàiGòn để cứu cha, mẹ cũng quyết định đưa cha đi. Nơi thành phố không người thân, không họ hàng quyến thuộc, không tiền, không bạc thế mà mẹ vượt qua và đã cứu được cha, người bạn đời của mẹ. Người cha của chúng con bây giờ. Trong khi cha được nằm dưỡng sức, mẹ trở về quê lo gom góp chút tiền bạc còn sót lại và vài ba con gà làm quà tạ ơn những công nhân, y tá bác sĩ đã tận tình cứu sống cha, chúng con còn nhớ những mẫu bánh mì khô, cứng trong chiếc giỏ nhựa xanh mà mẹ nhịn ăn rồi gói cẩn thận mang về quê cho anh em chúng con. Con và đứa em gái giành nhau, hâm nóng bên ngọn lửa rơm khoái đen xì vậy mà ngon. Thật ngon!. Với tình thương mẫu tử, hy sinh, đùm bọc luôn luôn nghĩ về con của mẹ. Nên anh em chúng con biết được vị ngon của bánh mì trong đời tuổi thơ ở quê nghèo.
Khi cha trở về, căn nhà ngói của mẹ chỉ còn cái vỏ bề ngoài, gian nhà ngan chứa thóc, hầm khoai trống lổng, đàn bò, vài ba sào ruộng lẻ, đàn chim bồ câu đã ngã sang tay của người chủ mới. Nhà mình đang rơi vào cảnh cơ hàn...Người thân, bạn bè của cha không còn lui tới như xưa, những lời dềm pha, châm biếm của bà bác, bà thiếm trong những lễ hội, đình đám mà mẹ là nhân vật chính bắt đầu thay cho những lời khen, chúc tụng của nhiều năm về trước! Mẹ không phải là con của ông tri bà huyện xóm trong, xã ngoài về làm dâu xóm dưới, mẹ cũng không cần có ông mai bà mối thân thuộc giới thiệu về làm dâu trong tộc, mẹ tứ cố vô thân nơi quê chồng. Đời mẹ chỉ có cha và mấy đứa con của mẹ.
Trong khi cha nằm nhà dưỡng bịnh, mẹ ra tay điều binh khiển tướng, mẹ làm chuồng nuôi gà, xới đất trồng khoai, trồng bí, anh bón phân tưới nước, chị gánh hàng ra chợ, nhà mình tạm có bát cháo, quả trứng thay cho những khoai mì, củ sắn triền miên của những năm tiện tặng dành dụm để chạy chữa cho cha qua ngày.
Nhờ những thùng cà, gánh rau và đôi bàn tay khéo léo, mát tay vun tỉa của mẹ mà người con trai thứ hai của mẹ được cắp sách đến trường trung học ở ngoài quận lỵ, hai anh em chúng con đi học thêm với ông Tú ở làng kế bên…
Nhưng hoà bình thật sự như chưa hề có, chính sự miền quê lại rục rịch hâm nóng, ban ngày sinh hoạt có vẻ bình thường, ban đêm nhà nhà cửa đóng then cài, bắt bớ, sát hại nhau giửa đêm khuya, tranh tối tranh sáng…cha đứng ngồi không yên. Cùng với thiên tai bão lụt cha quyết định bỏ quê ra đi và mẹ cũng là người thừa lịnh.
Đồi cát trắng An Hải, rừng thông, mùi gió biển Mỹ Khê đêm về đón gia đình mẹ. Mẹ gom đá dựng bếp, nhặt gốc thông già đốt lửa làm cơm, con và em quấn quít theo mẹ bên bếp lửa lốp đốp đỏ hồng. Nồi cơm trắng, vài ba con cá khô cho bửa cơm tối đầu tiên bên kia thành phố tưởng chừng như mới ngày hôm qua…
Cha lại có dịp thi thố tài năng, mẹ có nhà xây, gác lửng, sản xuất hàng bán qua thành phố, cha xây nhà máy cung cấp ánh sáng quanh vùng. Sự nghiệp của mẹ bắt đầu. Cha mua xe đưa mẹ đi phố cuối tuần, anh em chúng con lần lượt lớn, trưởng thành, trung học rồi đại học ai cũng có bạn có bè và những sinh hoạt riêng tư; không quanh quần bên mẹ như xưa.
Rồi thế sự miền Nam bắt đầu sôi sục trở lại, cha nói đến trung lập, hoà bình, phân chia đất nước, thay cho chuyện làm ăn bên ly cà phê ở quán ven đường với những người hàng xóm…mẹ vẫn âm thầm buôn bán không quan tâm đến chuyện của cha.
Sau khi các tỉnh bên kia đèo Hải Vân thất thủ, cha vội vả thuê tàu gom góp gia tài, đưa mẹ và họ hàng dọc biển xuôi Nam. Hai bàn tay mịn mà của mẹ không lau khô hết dòng nước mắt, khi bước chân cuối cùng của mẹ theo cha ra khỏi căn nhà. Gia tài của mẹ bỏ lại sau lưng.Mẹ lại theo quyết định của cha.
Vào Nam không đất dụng vỏ, những ngày đầu cha đưa mẹ đi tìm những người chạy chữa cho cha năm trước, tối về quanh quần trong căn nhà nhỏ ở cuối hẻm, cha bớt nói ít cười hơn xưa. Mỗi sáng ra, cha đi quanh lối xóm, tiếp tục nhìn quanh, ngang dọc để tìm lối thoát cho gia đình, mẹ vốn đã ít nói nay thêm trầm tư, thở dài như nhớ về cuộc đời thăng trầm của quá khứ. Chúng con muốn thưa với mẹ:
Các con của mẹ đã lớn, mẹ yên tâm.
Nhưng thật ra tương lai không lối thoát đang bao trùm trong căn nhà cuối hẻm!
Thế rồi chiến tranh đã đến hồi kết thúc, miền Nam đã có chủ mới! lần nầy làm cha thất vọng ê chề. Chạy? Ngỏ cụt! Cha khuyên anh em chúng con nên tìm đường ra đi, mẹ nghẹn ngào nước mắt chảy dài trên má rơi xuống mâm cơm giữa nền nhà:
-Mẹ không còn khả năng để lo cho các con, mẹ còn lại ít vàng các con chia nhau để tìm lối đi.
“ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”
Thương mẹ anh em chúng tôi phần đi nửa ở, cuối cùng đám con quay quần bên mẹ, sang sẽ với mẹ những năm có cùng một cái khổ mới…
Bây giờ, mẹ không có đất trồng cây, ươm trái như xưa. Nhưng ảnh hưởng thăng trầm đất nước, cuộc đời quá khứ nên mẹ gầy đi nhiều hơn so với khi còn ở trong quê.
Đêm về mẹ thức thâu đêm, chờ sáng để đi nhận phiếu bánh mì, vài ba gram đường, bột ngọt trước khi hàng chờ đến phiên mình quá dài. Thế mà khi trở về bánh mì chẳng có mà đường cũng không! Đươc ít hôm thì mẹ ngã bịnh vì kiệt sức. Cha lại bàn tính đưa gia đình đến đồng bằng sông Cữu Long. Thế là mẹ theo cha về miền đất mới. Trời nước mênh mông, lúa cao ngập đầu. Mẹ lại có bầy heo, đàn gà, con trâu... cây ổi sau vườn, cây khế ngọt trước ngõ và chiếc đèn dầu treo lơ lửng ở đầu bếp...nhàn hạ, nhưng rồi cũng không được bao nhiêu năm thì chiến tranh biên giới lại sôi sục, mẹ vội vã bỏ nhà xuống đò chạy về thành phố...lần này mẹ không khóc, cũng không cười-mẹ lặng thinh! Nước Cữu Long hững hờ trôi!
Khi trở về thành phố, mẹ không kịp từ giả, dặn dò đứa con của mẹ vừa bỏ nước trốn đi trong đêm tối. Mười năm sau, với lòng thương và ân đức của mẹ để lại con đã trở về cùng cô dâu và cháu nội thăm mẹ. Mẹ dúi vào tay cô dâu sợi dây chuyền, chiếc vòng mà mẹ gói thật cẩn thận, cài sau túi áo sờn góc của mẹ qua nhiều năm để dành cho cô dâu út làm quà cưới. Cứ thế con về thăm mẹ được nhiều năm kế tiếp rồi mẹ yếu dần theo tuổi thọ, mẹ héo mòn vì nhớ con, nhớ cháu…
Như định mệnh đã an bài, ngày cuối cùng của một năm cũng là ngày cuối cuộc đời của mẹ. Mẹ ra đi bình thản sau nụ hôn lần chót của cha.
-Ông ơi-đến đây cho tôi hôn một cái. Cha vừa rời tay mẹ, mẹ chậm rải
-Con cho bà nằm xuống.
Đó cũng là lần cuối cùng mẹ nằm xuống rồi không ngồi dậy sau tám mươi sáu năm, trong đó hết bảy mươi năm mẹ chia cuộc đời cho chồng, cho con. Lòng đất lạnh quê cha đã ôm ấp hình hài của mẹ. Mẹ đã gặp đứa con út của mẹ và mẹ đang chờ cha về nằm bên cạnh. Mẹ sẽ có cha.
Nơi xứ người, mỗi sáng vợ chồng con thắp hương thờ mẹ, mùi hương thơm. Vu Lan lại đến mỗi ngày. Con nhớ Mẹ.
.
Mẹ đã biết.
Con không phải một Phật tử ngoan đạo nhưng mỗi mùa lễ Vu Lan về, con đến chùa thắp hương dâng mẹ. Mùi hương thơm con nhớ mẹ. Hai chữ báo hiếu giày vò kí ức của con. Con đã làm được gì cho mẹ! bổn phận làm con! Con chưa báo hiếu cho mẹ.
Ngày xưa.
Từ khi còn nhỏ con thích bài thơ, bản nhạc "bông hồng cài áo", nhưng mỗi khi đọc hay nghe bài thơ ấy làm con sợ sệt lo âu khi mẹ còn sống.
Và một bông Hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ.
Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn.
Nhưng rồi chuyện gì đến phải đến. Mẹ của chúng con đã ra đi! chúng con đã trở về :
Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi.
Như đóa hoa không mặt trời
Như trẻ thơ không nụ cười...
Con không nhớ bắt đầu từ cơ hội nào mẹ gặp cha, nhưng có lẽ khi Nội qua đời lúc cha mới vừa lên năm. Để tránh sự khổ cực ở quê nhà, mười hai tuổi cha thoát ly đi Trong rồi cha gặp được một cô công nhân của bịnh viện An Khê, Pleiku. Vừa trẻ và đẹp trải lòng thương cha.. Ngoại chấp thuận lời cầu hôn của cha, cùng cho phép đưa mẹ về quê chồng trong lúc mẹ đang mang thai người con đầu lòng. Quyết định về lại quê cha đất tổ là của cha, mẹ chỉ đi theo cho trọn nghỉa " Xuất giá tòng phu". Về lại quê nhà, cha thi thố tài năng, từ căn nhà tranh, nền đất, không vách chật hẹp đến những nhà máy dẩn thuỷ nhập điền, cha bận rộn công việc đồng án mẹ âm thầm ở nhà sinh đứa con đầu lòng, từ đó nhân số nhà mẹ lên đôi lên ba. Mẹ ở nhà nuôi dạy chăm chút anh chị lớn của con để cha tung hoành ngang dọc. Gia đình mình bắt đầu làm ra kiếm thấy. Bạn bè, họ hàng bên nhà chồng ngày lại càng đông, những buổi tiệc, hội hè một tay của mẹ lo toan, cha được nở mày nở mặt, mẹ đón nhận những khen tặng tâm tình!
Rồi chiến tranh năm 1945 nóng bỏng, mẹ gánh nặng vác nhẹ, anh trước, chị sau tìm nơi trú ẩn bao bọc cho hai đứa con đầu lòng . Sau khi hết tiếng bom đạn, trở về làng thì nhà của mẹ đã trở thành đống tro tàn...
Cha lại ra công gầy dựng, mẹ tiếp tục chăm lo anh chị. Rồi trên đà thăng tiến, nhà mình đã có đến sáu anh chị em, sáu người con mười hai tính; nhưng chúng con không hề thấy mẹ giận hờn hay to tiếng, đứa ngoan, đứa hư mẹ cũng âm thầm, chìu chuộng, không một lần nặng lời trách than.
Tưởng rằng đứa con trai út của mẹ ra đời như để chào đón những năm hoà bình sau 1954. Nhưng oan nghiệt thay, đứa em của chúng con đã chết đột ngột trong vòng tay ấm êm của mẹ. Người anh cả của chúng con chưa kịp tiển đứa em ra đi lần cuối, thì lệnh lên đường thi hành nghĩa vụ quân dịch cùng đến.Mẹ khóc. Ở vào tuổi lên năm con đã chứng kiến mẹ khóc vật vả bên giường, ôm đứa con bé bỏng trong tay, ấn sát vào lòng như cố chuyền hơi thở ấm áp của mẹ cho con...cho tim con sống dậy...cho con lần cuối...Chúng con không biết còn sự đau đớn nào hơn, trên đường đưa đứa con út của mẹ ra nghĩa trang, trước mặt mẹ quan tài của em, sau lưng là đứa con đầu lòng của mẹ đang bên bờ đê rời quê ra đi ... còn cảnh đời nào đau khổ hơn đến với mẹ!
Trở về nhà sau khi chôn cất em, mất con, vắng người con trai cả, mẹ ngã người giửa nhà khóc tức tưởi, không nghĩ đến sức khỏe của mẹ, dường như mẹ muốn chết thay em, muốn ra đi thay cho anh...mẹ héo hon và trầm lặng hơn xưa…Cha đã mất nhiều ngày dỗ dành an ủi...vổ về mẹ...mẹ chỉ có cha...
Gia đình mình bắt đầu đi xuống từ đó; người trai lớn thay cha lo công xưởng mỗi ngày đã ra đi, cha ngã bịnh, cơ ngơi sự nghiệp dần dà bán hoặc thế chấp cho người chú, ông bác để lo chạy chữa cho cha.Bao nhiêu gánh nặng đè lên đôi vai mảnh khảnh của mẹ.Xưa nay mẹ ẩn nấp sau lưng cha lo việc hậu trường nay mẹ ra quân tham trận. Ở miền quê không ruộng, không tay cấy tay cày. Mẹ chuyển qua hướng dẩn các anh chị trồng cà, gieo bí ở mái hiên trước, bờ ao sau vườn một cách thật tháo vát, chuyên nghiệp. Sức của mẹ có hạn nên cà và bí bán ra cũng không kịp đủ để chạy chữa cho cha, thầy lang từ xóm trong làng ngoài bó tay... và của cải dành dụm lâu nay cũng bay theo... không còn những thứ giá trị để đổi hoặc bán đi nhưng mẹ cũng không bỏ cuộc; vay kẻ ở làng trên, mượn người xóm dưới để mong chữa lành bịnh cho cha, đưa cha ra quận ra tỉnh, thành phố rồi thành phố nhưng bịnh tình của cha cũng không thuyên giảm.
Cho dù đau chết ở nửa đường đến SàiGòn để cứu cha, mẹ cũng quyết định đưa cha đi. Nơi thành phố không người thân, không họ hàng quyến thuộc, không tiền, không bạc thế mà mẹ vượt qua và đã cứu được cha, người bạn đời của mẹ. Người cha của chúng con bây giờ. Trong khi cha được nằm dưỡng sức, mẹ trở về quê lo gom góp chút tiền bạc còn sót lại và vài ba con gà làm quà tạ ơn những công nhân, y tá bác sĩ đã tận tình cứu sống cha, chúng con còn nhớ những mẫu bánh mì khô, cứng trong chiếc giỏ nhựa xanh mà mẹ nhịn ăn rồi gói cẩn thận mang về quê cho anh em chúng con. Con và đứa em gái giành nhau, hâm nóng bên ngọn lửa rơm khoái đen xì vậy mà ngon. Thật ngon!. Với tình thương mẫu tử, hy sinh, đùm bọc luôn luôn nghĩ về con của mẹ. Nên anh em chúng con biết được vị ngon của bánh mì trong đời tuổi thơ ở quê nghèo.
Khi cha trở về, căn nhà ngói của mẹ chỉ còn cái vỏ bề ngoài, gian nhà ngan chứa thóc, hầm khoai trống lổng, đàn bò, vài ba sào ruộng lẻ, đàn chim bồ câu đã ngã sang tay của người chủ mới. Nhà mình đang rơi vào cảnh cơ hàn...Người thân, bạn bè của cha không còn lui tới như xưa, những lời dềm pha, châm biếm của bà bác, bà thiếm trong những lễ hội, đình đám mà mẹ là nhân vật chính bắt đầu thay cho những lời khen, chúc tụng của nhiều năm về trước! Mẹ không phải là con của ông tri bà huyện xóm trong, xã ngoài về làm dâu xóm dưới, mẹ cũng không cần có ông mai bà mối thân thuộc giới thiệu về làm dâu trong tộc, mẹ tứ cố vô thân nơi quê chồng. Đời mẹ chỉ có cha và mấy đứa con của mẹ.
Trong khi cha nằm nhà dưỡng bịnh, mẹ ra tay điều binh khiển tướng, mẹ làm chuồng nuôi gà, xới đất trồng khoai, trồng bí, anh bón phân tưới nước, chị gánh hàng ra chợ, nhà mình tạm có bát cháo, quả trứng thay cho những khoai mì, củ sắn triền miên của những năm tiện tặng dành dụm để chạy chữa cho cha qua ngày.
Nhờ những thùng cà, gánh rau và đôi bàn tay khéo léo, mát tay vun tỉa của mẹ mà người con trai thứ hai của mẹ được cắp sách đến trường trung học ở ngoài quận lỵ, hai anh em chúng con đi học thêm với ông Tú ở làng kế bên…
Nhưng hoà bình thật sự như chưa hề có, chính sự miền quê lại rục rịch hâm nóng, ban ngày sinh hoạt có vẻ bình thường, ban đêm nhà nhà cửa đóng then cài, bắt bớ, sát hại nhau giửa đêm khuya, tranh tối tranh sáng…cha đứng ngồi không yên. Cùng với thiên tai bão lụt cha quyết định bỏ quê ra đi và mẹ cũng là người thừa lịnh.
Đồi cát trắng An Hải, rừng thông, mùi gió biển Mỹ Khê đêm về đón gia đình mẹ. Mẹ gom đá dựng bếp, nhặt gốc thông già đốt lửa làm cơm, con và em quấn quít theo mẹ bên bếp lửa lốp đốp đỏ hồng. Nồi cơm trắng, vài ba con cá khô cho bửa cơm tối đầu tiên bên kia thành phố tưởng chừng như mới ngày hôm qua…
Cha lại có dịp thi thố tài năng, mẹ có nhà xây, gác lửng, sản xuất hàng bán qua thành phố, cha xây nhà máy cung cấp ánh sáng quanh vùng. Sự nghiệp của mẹ bắt đầu. Cha mua xe đưa mẹ đi phố cuối tuần, anh em chúng con lần lượt lớn, trưởng thành, trung học rồi đại học ai cũng có bạn có bè và những sinh hoạt riêng tư; không quanh quần bên mẹ như xưa.
Rồi thế sự miền Nam bắt đầu sôi sục trở lại, cha nói đến trung lập, hoà bình, phân chia đất nước, thay cho chuyện làm ăn bên ly cà phê ở quán ven đường với những người hàng xóm…mẹ vẫn âm thầm buôn bán không quan tâm đến chuyện của cha.
Sau khi các tỉnh bên kia đèo Hải Vân thất thủ, cha vội vả thuê tàu gom góp gia tài, đưa mẹ và họ hàng dọc biển xuôi Nam. Hai bàn tay mịn mà của mẹ không lau khô hết dòng nước mắt, khi bước chân cuối cùng của mẹ theo cha ra khỏi căn nhà. Gia tài của mẹ bỏ lại sau lưng.Mẹ lại theo quyết định của cha.
Vào Nam không đất dụng vỏ, những ngày đầu cha đưa mẹ đi tìm những người chạy chữa cho cha năm trước, tối về quanh quần trong căn nhà nhỏ ở cuối hẻm, cha bớt nói ít cười hơn xưa. Mỗi sáng ra, cha đi quanh lối xóm, tiếp tục nhìn quanh, ngang dọc để tìm lối thoát cho gia đình, mẹ vốn đã ít nói nay thêm trầm tư, thở dài như nhớ về cuộc đời thăng trầm của quá khứ. Chúng con muốn thưa với mẹ:
Các con của mẹ đã lớn, mẹ yên tâm.
Nhưng thật ra tương lai không lối thoát đang bao trùm trong căn nhà cuối hẻm!
Thế rồi chiến tranh đã đến hồi kết thúc, miền Nam đã có chủ mới! lần nầy làm cha thất vọng ê chề. Chạy? Ngỏ cụt! Cha khuyên anh em chúng con nên tìm đường ra đi, mẹ nghẹn ngào nước mắt chảy dài trên má rơi xuống mâm cơm giữa nền nhà:
-Mẹ không còn khả năng để lo cho các con, mẹ còn lại ít vàng các con chia nhau để tìm lối đi.
“ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”
Thương mẹ anh em chúng tôi phần đi nửa ở, cuối cùng đám con quay quần bên mẹ, sang sẽ với mẹ những năm có cùng một cái khổ mới…
Bây giờ, mẹ không có đất trồng cây, ươm trái như xưa. Nhưng ảnh hưởng thăng trầm đất nước, cuộc đời quá khứ nên mẹ gầy đi nhiều hơn so với khi còn ở trong quê.
Đêm về mẹ thức thâu đêm, chờ sáng để đi nhận phiếu bánh mì, vài ba gram đường, bột ngọt trước khi hàng chờ đến phiên mình quá dài. Thế mà khi trở về bánh mì chẳng có mà đường cũng không! Đươc ít hôm thì mẹ ngã bịnh vì kiệt sức. Cha lại bàn tính đưa gia đình đến đồng bằng sông Cữu Long. Thế là mẹ theo cha về miền đất mới. Trời nước mênh mông, lúa cao ngập đầu. Mẹ lại có bầy heo, đàn gà, con trâu... cây ổi sau vườn, cây khế ngọt trước ngõ và chiếc đèn dầu treo lơ lửng ở đầu bếp...nhàn hạ, nhưng rồi cũng không được bao nhiêu năm thì chiến tranh biên giới lại sôi sục, mẹ vội vã bỏ nhà xuống đò chạy về thành phố...lần này mẹ không khóc, cũng không cười-mẹ lặng thinh! Nước Cữu Long hững hờ trôi!
Khi trở về thành phố, mẹ không kịp từ giả, dặn dò đứa con của mẹ vừa bỏ nước trốn đi trong đêm tối. Mười năm sau, với lòng thương và ân đức của mẹ để lại con đã trở về cùng cô dâu và cháu nội thăm mẹ. Mẹ dúi vào tay cô dâu sợi dây chuyền, chiếc vòng mà mẹ gói thật cẩn thận, cài sau túi áo sờn góc của mẹ qua nhiều năm để dành cho cô dâu út làm quà cưới. Cứ thế con về thăm mẹ được nhiều năm kế tiếp rồi mẹ yếu dần theo tuổi thọ, mẹ héo mòn vì nhớ con, nhớ cháu…
Như định mệnh đã an bài, ngày cuối cùng của một năm cũng là ngày cuối cuộc đời của mẹ. Mẹ ra đi bình thản sau nụ hôn lần chót của cha.
-Ông ơi-đến đây cho tôi hôn một cái. Cha vừa rời tay mẹ, mẹ chậm rải
-Con cho bà nằm xuống.
Đó cũng là lần cuối cùng mẹ nằm xuống rồi không ngồi dậy sau tám mươi sáu năm, trong đó hết bảy mươi năm mẹ chia cuộc đời cho chồng, cho con. Lòng đất lạnh quê cha đã ôm ấp hình hài của mẹ. Mẹ đã gặp đứa con út của mẹ và mẹ đang chờ cha về nằm bên cạnh. Mẹ sẽ có cha.
Nơi xứ người, mỗi sáng vợ chồng con thắp hương thờ mẹ, mùi hương thơm. Vu Lan lại đến mỗi ngày. Con nhớ Mẹ.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét